
Không có j quý hơn độc lập tự do là nội dung cốt lõi của tư tưởng hcm đúng hay sai ?
có quan điểm cho rằng không có j quý hơn độc lập tự do là nội dung cốt lõi của tư tưởng hcm.quan điểm đó đúng hay sai ? vì sao ?
câu hỏi là vậy bạn nào biết giúp mình với..nói là đúng hay sai rồi đưa mình tài liệu sẵn cũng được..cám ơn mọi ng

Nhận thức điều đó để chúng ta vững tin và tự hào về dân tộc ta, gìn giữ, phát huy toàn bộ di sản văn hóa thiêng liêng của cha ông ta để lại và các thế hệ chúng ta xây dựng hôm nay.
Công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam là sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Trong bài viết này, tôi chỉ đề cập đến tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam.
Theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), nền văn hóa tiên tiên có đặc trưng: Yêu nước và tiến bộ, có nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần nhân văn, tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Đất nước ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi huy động tối đa tiềm năng vật chất và tinh thần của cả dân tộc, của tất cả các thành phần kinh tế. Chủ nghĩa yêu nước là một động lực cực kỳ to lớn. Do đó, nền văn hóa tiên tiến trước hết phải là một nền văn hóa yêu nước.
Yêu nước là yêu làng quê, yêu phố phường, yêu vùng đất, vùng biển, vùng trời Tổ quốc; là yêu thương, gắn bó máu thịt với đồng bào, đồng chí; là quyết tâm bảo vệ toàn vẹn độc lập chủ quyền đất nước, quyền tự do, dân chủ; là ý chí đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, mọi người dân đều được ấm no, hạnh phúc. Gắn liền với yêu nước là tiến bộ. Nền văn hóa tiên tiến phải nền văn hóa kết tinh tất cả những gì là tiến bộ, là chân, là thiện, là mỹ của dân tộc, của thời đại, của loài người.
Yêu nước và tiến bộ là đặc trưng bao quát nhất của nền văn hóa tiên tiến. Còn hạt nhân cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là ý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói văn hóa không thể không nói hệ tư tưởng, vì hệ tư tưởng chi phối quan niệm về giá trị, chi phối đạo đức, lối sống và hành vi con người. Song, hệ tưởng không đồng nhất với văn hóa, không thể quy toàn bộ các giá trị văn hóa vào hệ tư tưởng; nhưng xét đến cùng, trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng có cốt tủy là hệ tư tưởng giai cấp. Vì thế, không thể đồng nhất văn hóa với hệ tư tưởng, bởi văn hóa có nội hàm rộng hơn hệ tư tưởng rất nhiều. Và thật sai lầm nếu phủ nhận vai trò của tư tưởng đối với văn hóa, nhất là khi nói đến cả một nền văn hóa, cả một dòng văn hóa. C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”.
Là hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp công nhân như mọi hệ tư tưởng, nhưng khác với bất cứ hệ tư tưởng nào khác, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học kết tinh những tinh hoa văn hóa nhân loại, hướng vào giải phóng toàn xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, khắc phục triệt để tình trạng con người bị tha hóa, tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn thiện con người.
Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc và những hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hóa lớn Đông Tây, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin như một bước ngoặt quyết định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự gặp gỡ thần kỳ này đã sản sinh ra một nhân cách, một mẫu hình văn hóa mới. Như vậy, thật chính xác khi Nghị quyết Trung ương 5 nêu lên mục tiêu nền văn hóa tiên tiến là tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Ở đây là tính nhân văn cao cả trong đó giai cấp, dân tộc và nhân loại, cá nhân và xã hội, xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ tư tưởng thấu suốt nền văn hóa mà chúng ta xây dựng.
Tính chất tiên tiến thể hiện không những ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung. Đó là, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại trong đời sống văn hóa, sinh hoạt văn hóa, trong các ngành thông tin, nghệ thuật, điện ảnh, sân khấu, âm nhạc…; các phương pháp, phong cách sáng tác và biểu diễn cách tân lành mạnh; việc kế thừa, đổi mới và nâng cao các loại hình nghệ thuật truyền thống, sinh hoạt văn hóa truyền thống. Ở đây, tiên tiến thường có nghĩa là hiện đại, song không phải mọi cái hiện đại đều là tiên tiến, cũng không phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không được nhầm lẫn hiện đại với “chủ nghĩa hiện đại” tắc tị, bệnh hoạn nhất là trong văn học nghệ thuật.
Văn hóa không phải cái gì bất biến. Văn hóa là một hiện tượng xã hội không chỉ bao quát quá khứ, hiện tại mà còn tỏa ra cả tương lai. Ở Việt Nam sự biến đổi văn hóa trong dòng chảy thời gian có lẽ đã qua nhiều mốc lớn, giờ đây có thể kể đến một cái mốc cực kỳ quan trọng-mốc chuyển sang xây dựng một nền văn hóa phù hợp với bối cảnh mới: nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập với thế giới.
Đó chính là sự phát triển mạnh mẽ nền văn hóa Việt Nam, nền văn hóa giữ vững truyền thống và cốt cách dân tộc đi đôi với tiếp thu nhanh chóng và sáng tạo những tinh hoa của nền văn hóa nhân loại.
Nền văn hóa ấy tạo động lực để xây dựng một nền kinh tế với cơ cấu không ngừng đổi mới mang lại năng suất lao động, hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao, một cộng đồng xã hội dân chủ và công bằng với cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc. Nền văn hóa ấy là một tiền đề quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đưa dân tộc ta đến thắng lợi trong quá trình giữ vững độc lập chủ quyền và hội nhập với thế giới.
Mỗi người Việt Nam chúng ta luôn tâm niệm:
Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia văn hiến!
Dân tộc ta là một dân tộc văn hóa!
* Nếu con người không quá xét nét về những điều khác biệt cũng như những điểm giống nhau, thế giới này sẽ không có sự bất nhân và căm hận
- J. Addison
* Tỏ ra mình hơn người khác đâu phải là hay. Cái chân giá trị là có thể tỏ rằng: hôm nay mình đã hơn chính mình ngày hôm qua.
- Ngạn ngữ Ấn Độ
---------------
Bạn tham khảo thêm Bàn về Tự do
Cách đây hơn 230 năm, năm 1776, nước Mỹ tuyên bố độc lập, với bản tuyên ngôn độc lập được viết bởi Thomas Jefferson (1). Bản tuyên ngôn được coi là một trong những áng văn tuyệt tác nhất của nhân loại, với lời khẳng định về một chân lý hiển nhiên rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hoá đã ban cho họ những quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lý tưởng cao đẹp từ bản tuyên ngôn độc lập Mỹ đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều bài hùng biện nổi tiểng như “Diễn văn Gettysburg” của Abraham Lincoln (2), “Tôi có một giấc mơ” của Martin Luther King (3); và được nhiều quốc gia trên thế giới lấy làm giá trị căn bản để xây dựng nền dân chủ, cho phép mọi công dân có cơ hội thực hiện đầy đủ các quyền con người, trong đó có tự do.
Tự Do, một khái niệm nền tảng của triết học chính trị – xã hội, đã được diễn giải bởi rất nhiều triết gia, nhà tư tưởng qua bao thời kỳ, từ Socrates, Aristotle (4) của Hi Lạp cổ đại, đến John Locke, John Stuart Mill (5) của kỷ nguyên khai sáng. Đến nay, Tự Do hàm chứa những giá trị và quy chuẩn chung nhất cho nhân loại, khi được định chế hóa trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (6), với sự tham gia cam kết của hơn 190 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc(7).
***
Nhà văn Nguyên Ngọc, trong buổi ra mắt quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh ngày 9/1/2007, đã mở đầu bài diễn thuyết của ông bằng một tác phẩm cùng vài con số: “'Bàn về tự do' của John Stuart Mill, từ lâu đã được coi là kinh điển không chỉ ở châu Âu mà trên toàn thế giới. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu ở Anh năm 1859. Không đầy 10 năm sau, năm 1868, nó đã được dịch ở Nhật Bản, số phát hành lên đến 2 triệu bản, trong khi dân số Nhật lúc bấy giờ chỉ 36 triệu người”. Cũng cuốn sách ấy, nhưng “mãi đến năm 2004 mới được dịch lần đầu tiên ở ta, và cũng chỉ in lèo tèo có 1.000 bản, tức chậm hơn Nhật một thế kỉ rưỡi và số lượng in thì ít hơn họ 2.000 lần!” (8).
Thông điệp nào được nhà văn gửi đến qua sự so sánh ấy?
Hai con số trước hẳn “gắn liền sâu sắc với công cuộc duy tân nổi tiếng của Nhật cách đây mấy thế kỉ, cuộc lựa chọn vĩ đại đã đưa nước Nhật vào một con đường và đến một số phận khác hẳn các nước châu Á bấy giờ ” (9). Hai con số sau có thể phần nào giải thích sự hạn chế trong nhận thức của người Việt về Tự Do, từ đó, nhà văn nhắc đến một quy luật chung phổ biến rằng “một dân tộc, một đất nước chỉ có thể phát triển – thậm chí tồn tại mà không bị mỏi mòn, mai một – qua việc trao đổi liên tục với những nền văn hóa khác…” (10) [ở đó có tư tưởng, nhận thức về các khái niệm phổ quát như Tự Do].
***
Tự Do, hiểu một cách căn bản, là quyền được hành động mà không bị cản trở, miễn không gây tổn hại đến người khác. Trong số các quyền tự do của con người, một số quyền tự do căn bản nhất được minh định trong hiến pháp của hầu tất cả các quốc gia, như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do ứng cứ / bầu cử, v.v.
Tại Việt Nam, khi đa số người dân chưa nhận thức đầy đủ, (và do đó) chưa biết sử dụng đầy đủ các quyền tự do của mình, thì việc tìm đến các nguồn thông tin và hội luận về chủ đề này là điều cần thiết, để từ đó, cách hiểu và cách sử dụng các quyền tự do có thể mở rộng và tiến gần với nhận thức của thế giới văn minh.
Với hi vọng khơi nguồn cho người đọc tìm đến với “Bàn về tự do”, và xa hơn là các tác phẩm khác về cùng chủ đề, bài viết này đưa ra một số luận điểm trong tác phẩm, như là để gợi mở, hơn là để lập luận hay chứng minh, nhằm dọn đường cho suy tưởng.
Đôi nét về tác phẩm
Bàn về tự do ra đời năm 1859, là một trong các tác phẩm triết học nổi tiếng nhất về chủ đề Tự Do. Tác giả J. S. Mill (1806–1873) là nhà triết học thực chứng, nhà logic học, nhà chính luận và nhà hoạt động xã hội người Anh, với không ít tác phẩm được nhiều người biết đến, như Hệ thống logic, Chính thể đại diện, Chủ nghĩa vị lợi, v.v.
Trong tác phẩm, các nội dung cốt lõi được J. S. Mill đề cập đến bao gồm: 1) bàn về tự do tư tưởng, tự do thảo luận; 2) con người cá nhân như một thành tố của an sinh – bàn về tự do sở thích, tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống; và 3) giới hạn quyền uy xã hội đối với cá nhân. Lý tưởng của ông là “đem lại sự tự do cho từng người để có được sự phồn vinh của tất cả mọi người và cuối cùng là nhằm có được sự tiến bộ xã hội” (11).
Tuy tác phẩm được J. S. Mill viết cách đây 150 năm, nhưng “nhiều điều ông nói vẫn còn nguyên giá trị, chẳng hạn ‘điều mong muốn bây giờ là người cầm quyền phải được đồng nhất với nhân dân, rằng quyền lợi và ý chí của họ phải là quyền lợi và ý chí của quốc gia’. Hoặc ‘Đa số dân chúng vẫn chưa học được chuyện cảm nhận quyền lực của chính phủ là quyền lực của mình’” (12).
Cho đến nay, Bàn về tự do vẫn là “biểu hiện tốt nhất và hoàn chỉnh nhất về niềm tin vào sự tiến bộ của nhân loại bằng sự tự do tư tưởng”, và trong mọi nước và mọi thời, “chưa có quyển sách nào trình bày rõ ràng và bảo vệ kiên quyết cho học thuyết về tự do cá nhân đến như thế” (13).
Từ vài nét sơ qua ấy, chúng ta hãy cùng xem xét một số luận điểm trong tác phẩm kinh điển này, khởi đầu là tự do tư tưởng, tự do thảo luận, tiếp đến là tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống; chủ đề cuối cùng, tự do cá nhân trong tương quan với quyền uy xã hội, xin không bàn đến (hoặc bàn đến về sau), để bạn đọc tự tìm hiểu và tự rút ra những điều bổ ích.
Tự do tư tưởng, tự do thảo luận
Nói về tự do ý kiến, J. S. Mill cho rằng, mọi ý kiến phải được tự do thể hiện không một chút giấu giếm, bởi nó có khả năng chứa đựng chân lý, hoặc có tác dụng dẫn tới chân lý: “Cái xấu xa đặc biệt của việc bắt một ý kiến không được trình bày ra là sự đánh cắp đối với loài người, với các thế hệ mai sau và hiện nay, thiệt hại nhiều cho người bất đồng với ý kiến đó hơn là cho người giữ ý kiến đó. Nếu ý kiến đó là đúng thì người ta đã bị tước mất cơ hội bỏ cái sai lấy cái đúng; nếu ý kiến đó là sai thì họ mất đi một cái lợi lớn là cảm nhận được cái chân một cách minh triết hơn và ấn tượng về cái chân sống động hơn” (tr. 50).
Như thế, một ý kiến cần được khuyến khích biểu đạt, ngay cả khi trái ngược với các ý kiến xung quanh, bởi nó có khả năng đem lại phần nào lợi ích cho hội luận. Một khi các ý kiến được tự do bàn thảo, chúng sẽ góp phần bổ trợ cho nhau; qua đó, cả những ý kiến đúng và sai đều được hiển hiện sáng rõ hơn trong sự va chạm với các ý kiến đối lập.
Qua hội luận tự do, con người có thể rút ra kinh nghiệm từ những sai lầm. Mỗi cá nhân, trên tinh thần cầu thị, cần được tự do đưa ra các ý kiến, để trí tuệ được rộng mở thêm: “Con người có khả năng sửa chữa sai lầm của mình bằng thảo luận và trải nghiệm. Không phải chỉ có bằng trải nghiệm không thôi. Phải có thảo luận để biết trải nghiệm cần được suy đoán ra sao. Những ý kiến và thực tiễn sai lầm dần dần tạo nên các sự kiện và luận cứ; tuy nhiên, sự kiện và luận cứ trước hết phải được nêu ra mới có tác dụng lên trí tuệ được” (tr. 56).
Do các sự kiện và luận cứ hiếm khi tự thân nói lên được thực chất của chúng, nên cần được suy xét bởi con người. Sự suy xét của con người có thể cho một điều là đúng khi thực ra là sai trái, và theo J. S. Mill “chỉ khi nào nắm chắc được các phương tiện xác định đúng sai trong tay thì sự suy xét mới đáng tin cậy”. Nếu sự suy xét của ai đó xứng đáng được tin cậy thì nguyên nhân là ở đâu? Là ở chỗ, chủ nhân của sự suy xét ấy “luôn mở trí tuệ ra đón nhận sự phê phán đối với các ý kiến và cung cách cư xử của mình”, “luôn lắng nghe tất cả những gì có thể nói chống lại”, “khai thác thật nhiều lợi ích từ việc đó”, và giải thích rõ “cái sai lầm của những gì đích thực là sai lầm” (tr. 56, 57).
Một cách tự nhiên, con người giữ lấy những gì mình cho là đúng và gạt bỏ những gì mình nghĩ là sai. Nhưng, nếu ai đó mặc nhiên phủ nhận một ý kiến bị cho là sai, thì người đó không được cho phép mình miễn trừ khỏi sai lầm, bởi: “Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng cái ý kiến mà ta đang cố sức dập tắt là một ý kiến sai lầm” (tr. 50), hay “Khước từ lắng nghe một ý kiến bởi họ tin chắc ý kiến đó là sai lầm, có nghĩa là coi sự tin chắc của họ là chắc chắn tuyệt đối. Mọi sự bịt miệng trong thảo luận đều hàm ý tính không-bao-giờ-sai” (tr. 51).
Sự bịt miệng trong thảo luận, hay sự ngăn cản các ý kiến khác biệt được biểu đạt là hành vi đáng lên án. Với J. S. Mill: “Không phải sự đụng độ gay gắt giữa các bộ phận của chân lý, mà chính sự lặng lẽ dập tắt một nửa chân lý mới là điều xấu xa kinh khủng. Khi mà người ta còn buộc phải lắng nghe cả hai phía thì vẫn còn hi vọng; còn khi người ta chỉ chăm lo tới một phía thì các sai lầm sẽ kết lại thành thiên kiến và bản thân các chân lý sẽ không còn cho hiệu quả của chân lý nữa, mà bị thổi phồng lên thành ngụy tạo” (tr. 122).
Ngay cả khi một ý kiến “được thừa nhận chung không những là đúng mà còn là toàn bộ chân lý” (tr. 123), nó vẫn cần phải “đương đầu” với các ý kiến trái ngược, thay vì được bảo vệ bằng cách dập tắt các ý kiến trái ngược ấy. Vì sao lại như vậy? Vì “nếu nó không được trải qua thử thách mạnh mẽ và nghiêm chỉnh thì phần đông những người thừa nhận nó sẽ duy trì nó như một thành kiến, sẽ hiểu biết và cảm nhận các căn cứ duy lý của nó không được bao nhiêu” (tr. 123).
Bảo vệ cho sự tự do ý kiến, đánh giá cao lợi ích thu được qua thảo luận, hay cổ vũ cho tính đa dạng của tư duy, J. S. Mill đã đưa ra những luận điểm có giá trị và đáng ghi nhận. Trong số những chân lý mà loài người đạt được đến ngày hôm nay, có không ít đã được hình thành từ sự đa dạng ý kiến. Những ai đã đọc tác phẩm hẳn tâm đắc một câu: “trong tình trạng không hoàn hảo của trí tuệ con người thì sự đa dạng ý kiến là phục vụ cho lợi ích của chân lý” (tr. 120).
Tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống
Theo J. S. Mill, mỗi người có khả năng đạt tới cuộc sống tốt nhất, một khi có kế hoạch sống được lập ra bởi chính anh ta, mà không phải một ai khác. Để có được kế hoạch tốt nhất đó, anh ta phải được tự do xét đoán và quyết định những gì là tốt nhất cho bản thân. Lập luận cho quan điểm này, J. S. Mill đã hoan nghênh sự đa dạng về cách sống, trong chừng mực mỗi thể hiện riêng về cách sống không gây tổn hại tới những người xung quanh.
Những cá nhân khác nhau đòi hỏi các điều kiện khác nhau cho sự phát triển tinh thần của họ. Cùng một cách sống, đối với người này có thể là lành mạnh, đối với người khác có thể là trở ngại, hay làm ngưng trệ cuộc sống nội tâm. Cho nên “nếu không có sự đa dạng trong các kiểu cách sống của con người, thì con người chẳng những không chia sẻ được hạnh phúc với nhau mà còn không vươn lên được hết tầm vóc trí tuệ, đạo đức và thẩm mỹ mà bản chất con người có khả năng đạt tới” (tr. 155).
Trong môi trường xã hội, sự đa dạng trong các kiểu cách sống có thể bị cản trở bởi tập quán hay thói quen. Tập quán – thứ được duy trì bởi sức mạnh của số đông quần chúng, khi lấn át đi xu hướng riêng của mỗi con người, lại là nguyên nhân cản trở sự tiến bộ: “Ở nơi nào lề thói ứng xử không phải là tính cách riêng của con người mà là truyền thống hay thói quen của những người khác, thì ở đó thiếu mất một trong các thành tố chính của hạnh phúc con người, một thành tố rất chủ chốt cho sự tiến bộ cá nhân và xã hội” (tr. 131).
Bởi thế, sống theo tính cách riêng của bản thân thay vì bị uốn theo tập quán (nếu sự noi theo tập quán làm mất đi tính cách riêng) là điều mà con người cá nhân cần hướng tới, và là điều mà dư luận không nên phản đối, khi chú ý rằng: “Bản chất con người không phải là cái máy được chế tạo ra theo một khuôn mẫu và nhằm làm đúng một công việc định trước, mà nó giống như cái cây cần được lớn lên và phát triển ra mọi phía tùy theo khuynh hướng của sức mạnh bên trong nó, cái sức mạnh làm cho nó là một sinh vật” (tr. 137).
Khi được phát triển theo khuynh hướng của sức mạnh bên trong ấy, mỗi cá nhân trở thành một cá tính góp phần vào sự đa dạng của xã hội. J. S. Mill đã gọi những con người cá tính là “muối của trái đất” (tr. 184), những người không chỉ tạo ra những gì mới mẻ hơn, sáng tạo hơn, mà còn duy trì những gì đã có trở nên tốt đẹp hơn. Theo J. S. Mill, “Tùy theo mức độ phát triển cá tính mà mỗi người trở nên có giá trị hơn đối với bản thân, và do vậy mà có khả năng trở thành có giá trị hơn đối với những người khác” (tr. 145).
Sự phát triển cá tính, do đó, rất cần được chú trọng. Trong điều kiện phát triển phù hợp, cá tính có thể nảy sinh các thiên tài. Và để có các thiên tài, cần có không gian tự do: “Thiên tài chỉ có thể tự do hít thở trong một bầu không khí của tự do. Các cá nhân thiên tài là những người có cá tính nhiều hơn người khác” (tr. 149). J. S. Mill đặc biệt chú trọng tới “tầm quan trọng của các thiên tài và sự cần thiết phải cho phép họ tự do bộc lộ bản thân mình” (tr. 150), và thấy rằng “những cá nhân thiên tài là một thiểu số nhỏ bé…; nhưng để có được họ thì phải chăm lo đất trồng để các thiên tài từ đất ấy lớn lên tươi tốt” (tr. 148).
Trong toàn bộ cách nhìn về sự tự do này, J. S. Mill chịu ảnh hưởng từ học giả người Đức Wilhelm von Humboldt, cho rằng: hai điều kiện cần thiết cho sự phát triển con người là “sự tự do và sự đa dạng của các tình huống”. Như trên đã cho thấy, hai điều kiện này cho phép con người tự do lựa chọn lối ứng xử, cách sống mang dấu ấn cá nhân, và có cơ hội phát huy tính cá biệt của năng lực – là thành tố quan trọng cho mọi sự tiến bộ của xã hội.
***
Trên lộ trình tiến đến sự văn minh, nhân loại không ngừng đi lên theo những nấc thang của sự phát triển. Trong những bước tiến của sự phát triển, có một bước tiến lớn xuất phát từ sự thức tỉnh về Tự Do.
Bàn về tự do của J. S. Mill đã phần nào tạo nên lực đẩy cho bước tiến ấy, khi góp phần không nhỏ vào những chuyển biến xã hội mang sắc màu dân chủ ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở các nước Tây phương.
Toàn bộ tác phẩm nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự do của con người đối với sự phát triển của toàn xã hội. Một xã hội thực sự tự do là một xã hội đảm bảo không gian cho tính đa dạng của ý kiến, hành vi, và lối sống.
Nhận thức đầy đủ về tự do là nhân tố căn bản để mỗi người đạt được cho mình sự tự do thực sự. Từ đó, mỗi cá nhân sẽ tích cực tạo nên những giá trị tốt đẹp cho bản thân, cho cộng đồng, cho quốc gia, và cho cả thế giới.
_______________
(Lời tác giả: Bài viết này đã được viết cách đây gần 2 năm. Khi ấy, tôi đã gửi bài viết tới một nơi mà những bài viết dạng tiểu luận là không phù hợp để đăng cho lắm. Cho nên, tôi đã “ủ” bài viết đến ngày hôm nay. Và bởi thế, bài viết có tiêu đề như hiện tại.)