Máy ảnh Sony Alpha chụp có đẹp không
Máy ảnh Sony Alpha chụp có đẹp không nhỉ, mình đang định mua một chiếc DSLR mà phân vân giữa Nikon, Canon và Sony alpha quá...
Lịch sử ra đời của máy ảnh Sony Alpha
Năm 2006, Sony thâu tóm bộ phận hình ảnh của Konica-Minolta cùng hệ thống Dynax và sẵn sàng cạnh tranh với những ông lớn trong ngành công nghiệp máy ảnh. Mẫu Alpha đầu tiên, A100, xuất hiện năm 2006 dành cho người nghiệp dư. Một năm sau, A700 ra đời, được giới thiệu cho nhóm đam mê nhiếp ảnh. Năm 2008, Sony ra thêm A900 cảm biến Full Frame để hoàn thiện bộ sưu tập DSLR của mình. Tất cả chỉ trong vòng 3 năm.
Sony cộng tác với Carl Zeiss để tận dụng ưu thế quang học của hãng này. Ngoài ra, hãng cũng áp dụng mô-tơ lấy nét êm Super Sonic Wave Motor vào trong một số ống kính của mình.
Máy ảnh DSLR của Sony sử dụng ngàm của hệ thống Dynax (A mount) thuộc Konica Minolta, vì vậy tương thích ngược với các ống kính cũ. Dòng Sony Alpha sử dụng cơ chế chống rung trong thân máy tựa như của Olympus, Pentax
Các dòng DSLR/SLT Sony Alpha:
- Dòng 3 số: Axxx- DSLR truyền thống
- Dòng 2 số: Axx - DSLT, công nghệ gương mờ
- Dòng NEX: không gương
- Dòng RX: compact nhỏ gọn, tích hợp lens không tháo rời, cảm biến lớn hơn máy PnS du lịch thông thường.
Xếp theo thứ tự cấp thấp đến cao, cấp càng cao thì số càng cao
A100
Tại triển lãm điện tử máy tính CWE 2006, Sony chính thức trình làng máy ảnh số ống kính rời đời đầu, Alpha 100, được nhiều người trông đợi. Tương thích với ống kính của Konica Minolta, Alpha có cảm biến ảnh 10 chấm, hệ thống chống rung, và pin cho phép chụp 750 bức.
Cảm biến ảnh 10 chấm, kiểu dáng nhỏ gọn. Ảnh: Popphoto
Là sản phẩm đầu tay của Sony dành cho dân nhiếp ảnh nghiệp dư và gia đình trung lưu, nhưng Alpha 100 mang những công nghệ mà nhiều máy ảnh hi-end phải ghen tỵ. Đó là ngoại hình gọn nhẹ, chip xử lý ảnh Bionz đời mới, cảm biến ảnh CCD tới 10 triệu điểm ảnh.
Chức năng chống rung Super SteadyShot bên trong, thừa hưởng của Konica Minolta, giúp cho hình ảnh khỏi bị mờ khi người dùng mắc lỗi run tay hoặc không có chỗ đứng thật vững vàng. Vì được thừa kế, máy ảnh này tương thích với nhiều loại ống kính sẵn có trên thị trường.
Một chức năng độc đáo ở Alpha 100 là có hai phương pháp chống bụi vào cảm biến, một bằng lớp phủ vật liệu trên bộ lọc giảm thiểu sự nhiễu tĩnh điện; một là nhờ cơ chế chống rung Super SteadyShot sẽ tự động kích hoạt để rũ bụi khi camera tắt.
Pin của máy cho phép chụp tới 750 bức hình mới phải nạp lại. Vận hành nhờ chip DDR-SDRAM tốc độ cao, máy có thể chụp liên tục ở tốc độ 3 hình/giây đảm bảo bạn có thể kịp thời ghi lại những khoảnh khắc bất thần. Theo Sony, thời gian trễ mở ống kính không đáng kể, cũng như khoảng thời gian chờ giữa hai bức hình nên máy có thể chụp hình gần như ngay lập tức không bị gián đoạn.
Hãng đến từ xứ sở phù tang còn cung cấp 21 loại ống kính khác nhau cho phép lắp lẫn, bao gồm các ống kính Carl Zeiss và 2 ống kính Tele chuyển đổi. Với chất lượng quang học tốt trên các phương diện độ thấu quang, khả năng tái tạo màu sắc, hiệu ứng, nên hứa hẹn cho các bức ảnh chất lượng cao.
Alpha có thể lấy nét nhanh chóng chủ thể. Cảm biến ảnh lấy nét trung tầm tại 9 vùng và 8 đường thẳng giao nhau trong máy sẽ cho phép lấy nét trong một khu vực rộng và tốc độ chụp nhanh khiến máy tiếp cận với các vật thể chuyển động nhanh.
Màn hình LCD 2,5” công nghệ ClearPhoto Plus cho hình ảnh sắc nét, rực rỡ nhờ 230.000 màu. Bề mặt phủ lớp chống loá (AR) làm cho hình ảnh vẫn rõ ràng dưới ánh nắng trực tiếp.
Máy còn có tới 6 chế độ chụp cảnh mặc định sẵn, gồm Chân dung, Phong cảnh, Cận cảnh, Mặt trời lặn, Chân dung vào ban đêm và Cảnh đêm. Những chức năng này đều được bố trí trên nút xoay chế độ. Máy được thiết kế tiện dụng, điều khiển dễ dàng từ cân bằng trắng, phơi sáng… kể cả với người chưa quen sử dụng.
=========
A200
Trong khuôn khổ hội chợ hàng điện tử tiêu dùng CES 2008 diễn ra tại Las Vegas (Mỹ), Sony đã giới thiệu mẫu máy ảnh số ống kính rời tầm thấp mới nhất của mình mang tên Alpha A200, được trang bị cảm biến 10 chấm và có tốc độ chụp liên tiếp 3 hình/giây.
Sony Alpha A200 được thừa hưởng những tính năng tiên tiến của mẫu máy đời cao A700 mới ra mắt năm ngoái, nhắm tới đối tượng người dùng là những tay máy mới vào nghề. Alpha A200 được Sony kỳ vọng sẽ là sự thay thế xứng đáng cho A100, model đánh dấu những bước chân đầu tiên của hãng điện tử Nhật Bản trên thị trường máy ảnh số ống kính rời.
Ngoài cảm biến CCD APS có độ phân giải 10,2 Megapixel, Sony Alpha A200 còn được trang bị hệ thống ổn định ảnh dựa trên cơ chế di chuyển cảm biến Super SteadyShot, công nghệ tăng cường giải động DRO của Sony và màn hình LCD 2,7" có khả năng hiển thị 230.000 điểm ảnh. Bên cạnh đó, Alpha A200 cũng sở hữu đèn flash hoạt động theo cơ chế tự động bật. Ngoài ra, trên màn hình của chiếc DSLR này luôn hiển thị một cột báo tình trạng pin, giúp người dùng luôn biết được pin còn hay sắp hết.
So với A100, A200 có thân hình gọn hơn, màn hình lớn hơn một chút xíu, độ nhạy sáng cao hơn và tốc độ lấy nét tự động nhanh hơn gấp 1,7 lần. Ngoài ra, các phím bấm và menu điều khiển của A200 cũng được đánh giá là dễ sử dụng hơn. Việc cải thiện khả năng kiểm soát nhiễu cũng giúp cho những bức ảnh chụp bởi Sony Alpha A200 được dự báo là có chất lượng tốt hơn. Âm thanh của màn trập phát ra khi chụp bởi chiếc máy này cũng nhỏ hơn so với đời trước.
Sony Alpha A200 được trang bị khe cắm thẻ nhớ CompactFlash Type I/II. Máy hỗ trợ hai định dạng ảnh JPEG và RAW, có khả năng tương thích với tất cả các loại ống kính của Minolta Maxxum và dòng ống kính alpha của Sony, trong đó bao gồm cả ống kính Carl Zeiss.
===============
A230
Sony Alpha A230 là dòng máy dành cho người mới chơi của hãng điện tử hàng đầu Nhật Bản. Với sứ mệnh ra đời thay thế "tiền nhiệm" A200 đồng thời cạnh tranh với đối thủ trực tiếp là Nikon D3000 và Canon EOS 1000D, A230 sở hữu nhiều công nghệ tiên tiến vốn có ở các dòng máy tầm trung và chuyên nghiệp. Tuy nhiên, tốc độ chưa nhanh và sự bất tiện trong thiết kế tay cầm của Sony đã khiến sản phẩm này mất điểm trong mắt người tiêu dùng.
A230 có hình dáng tương đối giống "đàn anh" A330, với kích thước ba chiều 128 x 97 x 67,5 mm và trọng lượng 452 gram chưa kể pin và thẻ nhớ. Đây là một trong những máy ảnh cảm biến APS-C nhẹ nhất thị trường. Số lượng các phím bấm bên ngoài đã được giảm đến tối đa. Bạn sẽ tìm thấy các nút điều chỉnh Drive Mode, ISO hay hiển thị màn hình trực tiếp mà không phải thông qua các phím gián tiếp. Người dùng cũng sẽ gặp khó khăn khi muốn thay đổi điểm lấy nét vì máy chỉ cho phép làm việc này trong menu hệ thống. Khi đó, bấm giữ phím lấy nét rồi tái bố cục khung hình có lẽ là phương án nhanh và đơn giản hơn. Nút xoay chỉnh phơi sáng nằm dưới phím chụp được thiết kế hơi nhỏ và cứng, sẽ khá bất tiện khi phải chuyển cả tư thế tay cầm máy thì các ngón mới với tới được.
Kính ngắm quang của máy tương tự "người tiền nhiệm" A200 với hệ số phóng đại 0,83x và độ phủ 95% (ở phiên bản A330 là 0.74x và 95%). Hệ thống lấy nét 9 điểm hơi khó nhìn do viewfinder nhỏ, dù sao, đây cũng là nhược điểm chung của các DSLR bình dân giá rẻ. Màn hình 2,7 inch của máy rất sáng và nét với phân giải 230.400 điểm ảnh. Bạn có thể chỉnh tay độ tương phản với 5 mức khác nhau hoặc để máy chỉnh tự động cho phù hợp với điều kiện ánh sáng môi trường. Sony đã khá cẩn thận khi trang bị cho A230 một cảm biến định hướng giúp xoay màn hình trong trường hợp máy được đặt theo chiều dọc và hai cảm biến ánh sáng đặt ngay dưới kính ngắm giúp tự động tắt LCD khi mắt ghé lại gần viewfinder.
A230 có một chế độ đặc biệt nhằm giúp những người mới chơi biết cách điều khiển độ mở và tốc độ màn chập. Màn hình sẽ chỉ hiển thị một vài hướng dẫn quan trọng nhất với hệ thống biểu tượng trực quan, vui mắt. Tính năng này được các chuyên gia đánh giá khá cao. Người dùng thậm chí có thể chụp thủ công hoàn toàn mà hầu như không gặp bất cứ khó khăn nào do sự phức tạp của các thông số như những phiên bản trước đó.
Cảm quang CCD của A230 có kích cỡ 23,6 x 15,8 mm và độ phân giải 10,2 Megapixel. Kết hợp với vi xử lý BIONZ, máy cho tốc độ nhanh nhưng chưa thật sự ấn tượng. Sản phẩm mất khoảng 0,4 giây để khởi động và chỉ mất chưa đầy 0,3 giây tiếp theo để lấy nét rồi chụp trong điều kiện ánh sáng tốt. Thời gian chờ giữa 2 ảnh cũng khá ngắn, khoảng 0,7 giây nếu sử dụng file RAW và 0,5 giây nếu lưu file dưới dạng JPEG. Tuy nhiên, máy mất tới 1,5 giây để hồi nếu sử dụng đèn flash, lâu hơn nhiều so với các đối thủ cùng tầm. Tốc độ chụp liên tiếp là 2,4 hình/giây, hơi thấp hơn so với Nikon D3000 và Canon 1000D (3 hình mỗi giây) dù 2 đối thủ này đã ra mắt được một thời gian.
Chất lượng ảnh cho bởi A230 được đánh giá tốt so với tầm giá. Công nghệ tối ưu hóa dải tương phản (Dynamic Range Optimizer) có thể đem lại những thước chụp ấn tượng với khả năng điều tiết các vùng thừa-thiếu sáng tương đối ổn. Màu sắc và các chi tiết được tái hiện rất chuẩn tại các cài đặt ISO thấp. Khi lên tới ISO 400, độ nét đã bắt đầu giảm nhưng chưa nhận ra rõ. Nhiễu và biến dạng màu xuất hiện tại ISO 800 nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Bạn hầu như không muốn nâng độ nhạy cảm biến lên ISO 1600 hay cao hơn vì khi đó, ảnh đã tương đối nhiễu và mờ. Nói chung, bạn cũng không thể đòi hỏi cao hơn ở dòng máy cơ bản với mức giá khá rẻ này.
===================
A290
Hệ thống chống rung SteadyShot INSIDE giúp cho khung ảnh sắc nét.
Dành cho người sử dụng máy DSLR lần đầu, A290 giúp người dùng dễ dàng chụp được những bức hình ưng ý mà không phải quá chú tâm đến vấn đề kỹ thuật.
Máy ảnh mới Alpha A290 thiết kế gọn nhẹ. Cảm biến độ phân giải 14,2 megapixel của Alpha A290 là loại APS-C với tăng khả bắt sáng. Tính năng này kết hợp với bộ xử lý hình ảnh tốc độ cao BIONZ cho ra những hình ảnh với độ nhiễu thấp.
Alpha A290 tích hợp bộ cảm biến CCD loại APS-C kích thước lớn hơn khoảng 15 lần so với bề mặt của bộ cảm biến 1/2.5 inch thường được sử dụng trong các máy ảnh compact, giúp tăng khả bắt sáng.
ISO trên Alpha A290 có thể thay đổi từ ISO 100 đến ISO 3200, cho phép chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng. Thêm vào đó là hệ thống chống rung SteadyShot INSIDE được mặc định hoạt động với tất cả các loại ống kính.
A290 tích hợp cổng mini HDMI, cho phép truyền tải dữ liệu nhanh ở độ phân giải Full HD lên tivi. Hỗ trợ 2 khe thẻ nhớ định dạng SD/SDHC và Memory Stick PRO Duo/Memory Stick PRO-HG Duo.
==============
A300-A350
Nhân Hội chợ nhiếp ảnh PMA 2008 diễn ra tại Las Vegas (Mỹ), Sony tiếp tục giới thiệu thêm hai model máy ảnh số ống kính rời mới thuộc dòng Alpha mang tên A300 và A350, với độ phân giải lần lượt là 10,2 và 14,2 Megapixel.
Cảm biến của A300 có độ phân giải 10,2 Megapixel, còn của A350 là 14,2 Megapixel.
Cả hai chiếc DSLR mới của Sony đều được trang bị màn hình LCD 2,7 inch, độ phân giải 230.000 điểm ảnh, có khả năng lật, xoay linh hoạt và đặc biệt là hỗ trợ công nghệ ngắm ảnh sống Quick AF Live View. Công nghệ này cho phép chức năng tự động lấy nét tại 9 điểm vẫn hoạt động bình thường, không bị gián đoạn như ở nhiều mẫu máy khác.
Alpha A300 và A350 cũng được Sony trang bị cho bộ xử lý ảnh Bionz tiên tiến, công nghệ ổn định ảnh Super SteadyShot, hệ thống làm sạch cảm biến và một kính ngắm quang có độ phóng đại 0,75x và có khả năng bao quát được 95% khung hình. A300 và A350 tương thích với các ống kính của Sony và Minolta.
Độ nhạy sáng tối đa của Sony Alpha A300 và A350 là ISO 3.200, tốc độ trập dao động trong khoảng từ 1/4.000 đến 30 giây. Ngoài ra, hai mẫu máy mới còn được trang bị tính năng tối ưu hóa dải màu động (DRO), giúp tăng cường các chi tiết bóng và các chi tiết nổi bật trong những bức ảnh chụp ở độ tương phản cao. Tốc độ chụp liên tiếp của A300 là 3 khung hình/giây, còn của A350 là 2,5 khung hình/giây. Cả hai đều sử dụng thẻ CompactFlash để lưu trữ.
============
A380
.
Chiếc A380 với cảm biến 14,2 Megapixel có điểm nhấn là màn hình LCD xoay lật 2,7 inch và khả năng tự chỉnh độ sáng tùy theo môi trường. Nếu người dùng không cần tới độ phân giải cao thì có thể lưu ý chiếc A330 với 10,2 Megapixel.
A380 có thiết kế tương tự "người tiền nhiệm" A350 với một chút cải tiến về thiết kế, nhưng mức giá hợp lý hơn.
Nằm trong phân khúc máy ảnh entry-level dành cho người mới chơi, A380 là đối thủ của Canon EOS 500D và Nikon D5000. Đặc biệt, giống như những dòng DSLR trước đó của Sony, Alpha A380 có thể tương thích tốt với các ống kính mà Minolta sản xuất.
Phần quan trọng nhất của A380 là cảm biến hình ảnh 14,2 Megapixel kích cỡ APS-C 23,5 x 15,7 mm giống như của A350. Dải ISO của máy nằm trong khoảng 100 đến 3.200. Độ phân giải tầm đó là quá đủ cho nhu cầu của đa số người dùng, thậm chí cả với những nhiếp nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Tuy nhiên, cảm biến này vẫn thuộc loại CCD, phần nào cho tốc độ xử lý thấp và tiêu tốn nhiều điện hơn so với các đối thủ cùng tầm dùng chip CMOS. Bù lại, Sony đã tích hợp công nghệ chống rung SteadyShot trên cảm biến. Như vậy, chức năng này có thể hoạt động tốt trên mọi ống kính tương thích của hãng mặc dù bạn sẽ không thấy được hiệu ứng chống rung trên viewfinder hay trên màn hình khi bật Live View.
Tương tự các model A300 và A350, tính năng Live View (ngắm ảnh sống) không sử dụng cảm biến chính 14,2 Megapixel để bắt hình mà dùng một cảm biến phụ đặt ẩn ngay phía trước viewfinder. Khi khởi động tính năng này, thay vì chiếu ánh sáng vào khe ngắm, lăng kính đặt trong máy sẽ quay lệch một góc nhỏ nằm đưa phần ánh sáng này vào sensor phụ để truyền tải hình ảnh lên màn hình. Như vậy, tính năng lấy nét tự động (AF) sẽ không phải thực hiện qua khâu trung gian như các máy của Canon và Nikon. Tốc độ lấy nét của máy trên lý thuyết sẽ tăng lên đáng kể, giảm bớt hiện tượng ngắt quãng Live View hay tiếng ồn của gương lật khi nhấn nút chụp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc bạn có thể chuyển qua lại giữa 2 chế độ Live View - ngắm qua viewfinder rất nhanh chóng và êm ái.
Màn hình của A380 vẫn không có sự đổi mới so với A350. LCD kích thước 2,7 inch, độ phân giải 230.400 điểm ảnh, hơi nhỉnh hơn Nikon D5000 (230.000 điểm ảnh) những vẫn thua xa mật độ 920.000 điểm ảnh trên Canon EOS 500D. Màn hình này có thể lật lên xuống giúp người xem chụp ảnh tại những góc thấp hoặc cao quá tầm tay, nhưng không xoay được linh hoạt như D5000.
Do nhắm đến đối tượng là những người mới chơi hoặc dân chuyên muốn tiếp kiệm chi phí nên hệ thống điều khiển của A380 được thiết kế lại nhằm tạo sự thuận lợi, trực quan hơn. Tại chế độ mặc định, giao diện trên màn hình sẽ hiển thị các thông tin đơn giản hết mức theo từng hàng riêng biệt như hàng kiểm soát ISO, phơi sáng, khẩu độ cùng hai hàng kiểm soát các thông số phụ khác. Thậm chí máy còn cung cấp cả đồ thị vui mắt nhằm giúp người dùng tính toán độ sâu trường ảnh sao cho phù hợp. Các nút và phím xoay cũng được thiết kế lại nhằm tránh sự lẫn lộn như trên A350. Sony cũng quyết định giảm bớt kích thước của chiếc máy DSLR bình dân này xuống bằng đối thủ đến từ Nikon và Canon. Đặc biệt, máy còn được trang bị thêm một nút với chức năng Smart Teleconverter tương tự như zoom số trên các máy compact. Máy có 2 nấc zoom số là 1.4x và 2x, chức năng này chỉ làm việc trong chế độ Live View. Trọng lượng của máy không kể ống kính cũng chỉ dừng lại ở 490 gram, rất thuận tiện khi mang đi du lịch dài ngày.
Máy cũng được trang bị khe cắm thẻ nhớ đôi hỗ trợ định dạng thẻ SD và Memory Stick Pro Duo (vốn là định dạng độc quyền đắt đỏ của Sony) gần giống như trên model cấp cao Nikon D300s. Bạn có thể chuyển qua lại dữ liệu giữa 2 thẻ này hoặc chọn một thẻ làm bộ nhớ nhằm tiết kiệm chi phí.
Về nhược điểm, máy có tốc độ chụp liên tiếp khá thấp, 2,4 hình/giây, không hề có cải thiện so với A330, thậm chí còn chậm hơn một chút so với A350 và thua xa Nikon D5000 với 4 hình/giây. Tốc độ khởi động của máy dù nhanh, chỉ 0,6 giây, nhưng như thế cũng chưa thấm vào đâu so với "chớp mắt" 0,2 giây trên Nikon D5000 và Canon EOS 500D. Rõ ràng, đây không phải là sự lựa chọn khả dĩ nếu bạn muốn dùng A380 để chụp những khoảnh khắc nhanh như nhiếp ảnh thể thao, trẻ em hay phóng sự. Khả năng khử nhiễu của máy cũng chưa thật sự ấn tượng.
Tại ISO thấp, ảnh khá sắc nét và sặc sỡ, tuy nhiên trong vài trường hợp có sự sai lệch nhiều về màu sắc. Màu sắc cũng bắt đầu biến đổi lạ trên những thước chụp tại ISO 800 và khi tăng lên ISO 1600 ảnh đã mờ và mất dần các chi tiết. Nói chung, độ phân giải cao của cảm biến chẳng những không giúp cho ảnh thêm sắc nét mà nhiều khi còn khiến nhiễu xuất hiện tại một số vùng chụp tối tại ISO 400. Máy cũng không được trang bị tính năng quay phim vốn đang rất thịnh hành trên các dòng máy DSLR của Canon và Nikon dù tầm tiền bỏ ra không rẻ hơn các đối thủ này. Các tính năng của máy dù được Sony chu đáo thiết kế lại trong một giao diện thân thiện nhưng lại làm người dùng rối tung lên khi bắt họ phải tự thiết lập các thông số về màu sắc, tương phản và độ nét của ảnh trong mỗi style. Thậm chí cân bằng trắng của máy cũng hoạt động chưa thật sự tốt lắm, màu thường có xu hướng bị ngả sắc khi chụp trong điều kiện ánh sáng phức tạp.
Màn hình của A380 cũng hết sức tệ khi chỉ cho người dùng xem được khoảng 90% khung hình khi bật tính năng Live View do thiết kế hạn chế của sensor phụ. Ống ngắm có độ phủ nhỉnh hơn, 95% nhưng cũng khá khó nhìn do kích thước vẫn còn nhỏ. Tuy nhiên, đây cũng là hạn chế chung của những chiếc máy DSLR với tầm giá như vậy.
================
A390
A390 giữ những ưu thế được xem là "truyền thống" của dòng Alpha: cảm quang độ phân giải cao, hệ thống ổn định ảnh tích hợp và cơ chế lấy nét nhanh Quick AF Live View.
.
Là phiên bản nâng cấp của dòng máy DSLR bình dân, Sony Alpha A390 vẫn giữ lại những ưu thế được xem là "truyền thống" nhằm cạnh tranh với các sản phẩm đến từ Canon và Nikon, như thân máy nhỏ nhẹ, cảm quang độ phân giải cao, màn hình lật đa dụng, hệ thống ổn định ảnh tích hợp và cơ chế lấy nét nhanh Quick AF Live View. Chiếc máy ảnh mới chỉ hơi khác "người tiền nhiệm" A380 ở cách thiết kế báng cầm cùng việc bố trí lại tổ hợp phím nguồn/nhấn chụp và đĩa chỉnh thông số ở đỉnh máy. So với các phiên bản trước đó, Alpha A390 đã hạn chế được hiện tượng sai lệch màu sắc và cân bằng trắng kém trong môi trường ánh sáng phức tạp. Tuy nhiên, máy vẫn tồn tại một số "điểm trừ" rất đáng thất vọng như khả năng khử nhiễu tồi, đo sáng không ổn định và thiếu tính năng quay phim.
Sony A390 sở hữu thân hình khá gọn nhẹ với trọng lượng chưa tính pin chỉ khoảng 500 gram, ngang ngửa hai đối thủ Nikon D3000 và Canon EOS 1000D. Tuy nhiên, máy lại có ưu thế hơn ở màn hình kích thước lớn (2,7 inch) và khả năng lật đa năng (135 độ lên trên hoặc 55 độ xuống dưới). Tuy không có khả năng xoay nhiều chiều giống với LCD trang bị trên một số dòng máy ảnh đời mới nhưng màn hình của A390 vẫn đảm bảo đủ sự linh động và tiện dụng với những tư thế chụp khó như đặt sát mặt đất hay nâng máy lên quá đỉnh đầu. Tương tự tiền nhiệm A380, Sony đã thiết kế thêm một gương lật phụ và cảm biến nhận sáng trong buồn lăng kính nhằm phục vụ tính năng lấy nét tức thời Quick AF trong chế độ ngắm ảnh sống. Tuy nhiên, chính cải tiến này lại làm khung ngắm quang trở nên tối và hẹp đi khá nhiều. Độ phóng đại khi sử dụng với ống kính 50mm thiết lập lấy nét vô cực chỉ vào khoảng 0,74x, hơi kém hơn đối thủ Nikon D5000 (0,78x) và thua xa Canon 500D (0,87x).
Báng cầm được tái thiết kế với độ sâu lớn hơn nhằm đảm bảo sự chắc chắn và thoải mái kể cả khi sử dụng với các ống kính nặng. Vị trí của tổ hợp phím nguồn/nhấn chụp được đẩy ra xa để người dùng có thể dễ dàng điều khiển máy bằng ngón tay trỏ. So với tiền nhiệm A380, bánh răng tinh chỉnh thông số trên A390 cũng có kích thước to hơn và dễ điều chỉnh hơn do được đặt sát mép trên của báng cầm giống như các dòng máy DSLR của Nikon. Hệ thống điều khiển của A390 vẫn giữ nguyên sự đơn giản, gọn gàng như các phiên bản cũ, tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, Sony nên thiết kế phím Menu và phím xem lại ảnh to, nổi hơn một chút nữa để người dùng truy cập nhanh vào các tính năng này khi chụp vội. Về kết nối, máy cho phép truyền tải dữ liệu qua cổng USB và hỗ trợ xem lại ảnh trên màn hình TV thông qua cổng HDMI. Khe cắm thẻ nhớ đôi tương thích với loại thẻ Memory Stick Duo của Sony và cả định dạng SD truyền thống trên các dòng máy ảnh DSLR bình dân.
Sony Alpha A390 sở hữu cảm quang CCD 14,2 triệu điểm ảnh hiệu dụng theo chuẩn APS-C 23,5 x 15,7 mm. Mặc dù là dòng DSLR giá rẻ song A390 vẫn được trang bị hệ thống rũ bụi cảm biến và cơ chế ổn định ảnh trong thân máy. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, người dùng có thể tận hưởng công nghệ chống rung trên tất cả các ống kính tương thích với ngàm Alpha. Do sở hữu cảm quang độ phân giải lớn, những thước chụp trong điều kiện đủ sáng rất giàu chi tiết và thậm chí, vẫn không hề bị vỡ hình ngay cả khi crop để in cỡ lớn. Thử nghiệm của Ephotozine còn cho thấy, file RAW có độ nét nhỉnh hơn ảnh lưu dưới dạng nén JPEG một chút.
Với thiết lập mặc định, A390 tái tạo màu sắc tương đối chuẩn xác. Gam đỏ, xanh dương và lục có mức bão hòa hơi lớn hơn bình thường nhưng không quá gắt nên có tác dụng tích cực trong việc làm ảnh trở nên rực rỡ, sống động khi chụp ngoài trời và dưới các nguồn ánh sáng lạnh. Máy cũng cung cấp một số mặc cảnh trên đĩa xoay chọn chế độ với các thiết lập về màu sắc được tối ưu sẵn nhằm tạo sự đơn giản tối đa cho người dùng phổ thông. Cân bằng trắng tự động trên A390 hoạt động khá ấn tượng. Ảnh chỉ hơi ấm khi chụp dưới ánh đèn dây tóc. Tuy nhiên, màu sắc lại có xu hướng ngả về gam lạnh nếu như bạn thiết lập chế độ chuẩn "Incadescent Light". Cân bằng trắng tương đối chuẩn xác khi sử dụng với đèn huỳnh quang.
Sony Alpha A390 sử dụng hệ thống đo sáng 40 vùng tương tự như tiền nhiệm A380 và A350. Máy phản ứng khá tốt với các điều kiện ánh sáng chuẩn như trong studio hay dưới bóng râm, nhưng bộc lộ điểm yếu "chết người" khi đối diện với môi trường có độ tương phản cao. Ảnh luôn bị phơi sáng già khi có nắng đã khiến các chi tiết như bầu trời hay màu áo thường xuyên bị cháy. Thậm chí, hiện tượng này cũng vẫn gặp phải khi chụp hắt từ bóng râm ra ngoài trời đang có mây. Người dùng có thể sử dụng thêm tính năng tối ưu hóa dải tương phản hoặc trừ sáng đi một chút để khắc phục lỗi mất chi tiết. Cũng cần lưu ý thêm rằng, dải bù trừ sáng trên A390 chỉ cho phép thay đổi trong khoảng +/-2 EV (tăng từng nấc 1/3 EV), rất hẹp nếu so sánh với đa số mẫu DSLR có mặt trên thị trường hiện nay. Tốc độ đồng bộ đèn cũng chỉ đạt 1/160 giây, khá bất lợi nếu bạn muốn phả flash vào ban ngày mà không muốn ảnh bị cháy.
Cảm quang CCD phân giải cao sinh ra khá nhiều nhiễu hạt khi chụp trong điều kiện thiếu sáng. Ảnh chỉ mịn màng với các thiết lập ISO dưới 400. Khi tăng nhạy sáng lên 800, các đốm nhiễu lấm tấm có thể nhận ra tại những vùng có màu tối hoặc trung tính khi xem ở chế độ toàn màn hình. Thuật toán khử nhiễu hoạt động mạnh khiến ảnh hơi mờ. Sạn và các biến đổi lạ về màu sắc trở nên nghiêm trọng tại mức ISO trên 1600 làm các chi tiết nhỏ bị mất và độ nét cũng không còn được đảm bảo. Hiện tượng vỡ pixel ở mép các vùng màu giao nhau và nhiễu hạt quá nhiều tại khu vực tối khiến ảnh chỉ có thể in được cỡ nhỏ với thiết lập nhạy sáng ISO 3200.
Sony A390 có tốc độ hoạt động ở mức trung bình - khá. Máy chụp được 2,5 hình mỗi giây khi ngắm ảnh qua viewfinder quang học. Con số này giảm xuống còn 2 hình/giây khi bật tính năng Live View. Tuy nhiên, tốc độ này cũng bị giới hạn ở 6 ảnh RAW hoặc 3 ảnh RAW + JPEG, sau đó, máy phải mất một thời gian nhất định để ghi dữ liệu từ bộ nhớ tạm vào thẻ. Trong 9 điểm lấy nét, chỉ có duy nhất một điểm ở vùng trung tâm thuộc loại cross-type nên máy thường phán đoán nhầm hoặc tỏ ra khá chậm chạp khi chụp trong môi trường thiếu sáng và có độ tương phản thấp. Đây là điều khá bất tiện với những người thích nhiếp ảnh đêm hoặc chụp ảnh lúc hoàng hôn. Tương tự như các dòng máy Alpha trước đó, A390 không được trang bị tính năng quay video thời thượng vốn rất được ưa chuộng trên DSLR và thế hệ máy ảnh "lai" NEX. Pin Lithium đi kèm máy giúp chụp được khoảng 500 kiểu ảnh nếu ngắm qua viewfinder hoặc 230 kiểu khi bật Live View.
A500-A550
A500 trung thành với sự đơn giản và dễ dùng của dòng Alpha, thể hiện qua thiết kế giao diện trực quan, màn hình lật xoay đa năng và hệ thống Live View thú vị.
Với việc tung ra hai model tầm trung A500 và A550 vào giai đoạn cuối năm 2009, Sony dần tạo được dấu ấn riêng trên thị trường DSLR phổ thông - bán chuyên bằng điểm nhấn ở mức giá cạnh tranh và bộ tính năng vượt trội. Ngoài mục tiêu hướng đến người dùng cao cấp, phiên bản Sony Alpha A500 vẫn trung thành với sự đơn giản và dễ dùng, thể hiện qua thiết kế giao diện trực quan, màn hình lật xoay đa năng và hệ thống Live View thú vị. Khả năng tái hiện màu sắc chính xác, tốc độ chụp liên tiếp nhanh cũng là những "điểm cộng" rất đáng hoan nghênh ở dòng máy mới này.
Nhìn bề ngoài, phiên bản A500 trông không khác gì "ông anh" A550. Mặc dù được trang web Ephotozine xếp vào dạng DSLR tầm trung (mid-range) nhưng A500 có vẻ giống với một phiên bản phổ thông cao cấp do sự tương quan giữa mức giá và bộ tính năng. Thân máy có kích thước ba chiều 137 x 104 x 84 mm và khối lượng xấp xỉ 600 gram, ngang ngửa đối thủ Nikon D90 và chỉ hơi nhỏ hơn Canon 50D một chút. Báng cầm ở mặt trước được bọc hoàn toàn bằng cao su, tạo cảm giác chắc chắn nhưng không quá cứng khi cần tì mạnh để tránh rung lắc. Tuy nhiên, phần báng này lại khá nông khiến những người có ngón tay to và dài cảm thấy hơi mỏi nếu sử dụng lâu.
Mặt trước của máy vẫn duy trì thiết kế tương tự như một số model trước đó của Sony. Bạn có thể thay đổi nhanh một số chế độ thường dùng như Live View, kiểm soát dải tương phản, nhạy sáng ISO... mà không cần phải lục tìm trong menu hệ thống. Mặt sau của A500 tương đối giống với phiên bản A350, tuy nhiên, các phím phụ bên trái màn LCD đã được chuyển lên phía trên để tiện cho việc điều khiển bằng cả hai tay. Về mặt kết nối, máy hỗ trợ truyền tải dữ liệu thông qua cổng USB, HDMI và điều khiển bằng cảm ứng hồng ngoại gắn chìm trên báng cầm. Một điểm đáng hoan nghênh ở dòng máy mới này là Sony đã hỗ trợ việc sử dụng song song thẻ SDHC bên cạnh thẻ Memory Stick Pro Duo, vốn là định dạng độc quyền khá đắt đỏ của hãng.
Màn hình của A500 có độ lớn 3 inch tương tự như "đàn anh" A550 nhưng độ phân giải chỉ lên tới con số 230.400 điểm ảnh nhằm giảm thiểu giá thành. Màn hình này còn có thể lật 90 độ dọc theo hai trục, rất hữu dụng khi sử dụng tính năng ngắm ảnh sống trong các góc chụp khó như cao quá đỉnh đầu hay đặt sát mặt đất. LCD này sử dụng công nghệ Xtra Fine giúp chống lóa và hạn chế các sai lệch màu sắc. Tính năng Auto Brightness Control giúp tự động điều chỉnh độ sáng và tương phản màn hình tùy theo môi trường. Nếu chưa ưng ý, máy còn cho phép bạn chỉnh tay lên tới 5 mức. Hơi đáng tiếc khi Sony không trang bị cho A500 và A550 màn hình phụ thứ hai trên mặt máy như các model tầm trung đến từ Canon và Nikon.
Linh hồn của Sony A500 là cảm quang APS-C 12,3 triệu điểm ảnh chế tạo theo công nghệ Exmor CMOS. Toàn bộ cơ chế thu sáng nằm trên một phiến di động cho phép cơ chế chống rung thân máy SteadyShot làm việc với tất cả các ống kính tương thích. Thử nghiệm cho thấy, cơ chế này làm việc khá tốt. Thời gian phơi sáng có thể nâng lên tới 2,5-4 stop mà ảnh hầu như không bị nhòe do các rung lắc của thân máy. Hệ thống đo sáng 40 vùng có xu hướng làm ảnh phơi sáng hơi già đối với khung cảnh có độ tương phản cao khiến một số chi tiết như bầu trời hay màu áo thường xuyên bị cháy nếu chụp vào lúc nắng gắt. Khi các nguồn sáng đồng đều và không quá phức tạp, đo sáng của máy làm việc chính xác hơn hẳn. Ảnh có độ bão hòa màu tương đối cao. Gam đỏ hơi rực hơn các màu khác một chút nhưng chưa ảnh hưởng xấu đến chất lượng hình.
Với việc tích hợp một lượng điểm ảnh vừa đủ trên phiến sensor cỡ 23,5 x 15,6 mm, Sony đã giúp A500 chống chọi tốt với những tình huống chụp thiếu sáng nghiêm trọng. Nhiễu hầu như không xuất hiện dưới ISO 800. Tại nhạy sáng ISO 1.600, có một chút nhiễu kết tủa màu và sạn trắng xuất hiện trong các vùng tối. Thậm chí, bạn vẫn có thể sử dụng ảnh để in cỡ trung bình khi thiết lập ISO lên tới 3.200. Tính năng tự động tối ưu hóa dải tương phản hoạt động rất tuyệt vời, giúp kiểm soát tốt chi tiết trên các vùng thiếu và thừa sáng. Cân bằng trắng làm việc hoàn hảo dưới điều kiện ánh sáng ban ngày. Với nguồn sáng đèn dây tóc công suất lớn, ảnh hơi ngả vàng. Trong một số trường hợp đặc biệt (chẳng hạn dưới ánh sáng đèn huỳnh quang studio), cân bằng trắng trên A500 nhiều khi hoạt động kém chính xác khiến tương phản và màu bị đẩy cao quá mức.
Máy cũng cung cấp hai chế độ Live View tương tự như phiên bản A550 là Quick AF Live View và MF Check Live View. Tốc độ lấy nét khá chính xác và nhanh hơn các đối thủ ngay cả khi sử dụng tính năng ngắm ảnh sống. Tuy nhiên, theo Ephotozine, 9 điểm lấy nét lại được thiết kế quá gần trung tâm khung hình khiến việc lấy nét vào các khu vực ở rìa ảnh tương đối khó khăn. Trong 9 điểm nét này chỉ có một điểm ở trung tâm thuộc dạng cross-type. Do vậy, với cảnh có độ tương phản thấp và ánh sáng yếu, bạn buộc phải lấy nét vào vùng trung tâm, thực hiện khóa lấy nét và tái bố cục khung hình. Đây là điều khá bất tiện với những người thích nhiếp ảnh đêm hoặc chụp ảnh lúc hoàng hôn.
Sony Alpha A500 có tốc độ chụp liên tiếp khá tốt, vào khoảng 5 hình/giây (4 hình/giây nếu sử dụng tính năng ngắm sống). Tuy nhiên, bộ nhớ đệm của máy chỉ cho phép chụp với tốc độ này trong 6 ảnh RAW hoặc 12 ảnh JPEG đầu tiên, kém xa "đàn anh" A550. Tốc độ ăn đèn của A500 cũng chỉ đạt 1/160 giây, khá bất lợi nếu bạn muốn phả flash vào ban ngày mà không muốn ảnh bị cháy.
Điểm hơi đáng tiếc ở A500 là vẫn chưa được trang bị chức năng quay phim vốn đang dần thịnh hành trên các đời máy DSLR mới ra hiện nay. Pin Lithium NP-FM500H đi kèm cho phép chụp được tới 1.000 kiểu ảnh nếu sử dụng kính ngắm quang hoặc 520 kiểu nếu kích hoạt tính năng ngắm ảnh sống.
Giá bán của Sony Alpha A500 theo Sony Việt Nam là 13.490.000 đồng, chưa kể ống kính.
Chiếc máy ảnh Alpha A550 có tốc độ thực thi nhanh, chất ảnh sạch và mịn. Tuy nhiên, A550 chưa được trang bị chức năng quay video như các dòng DSLR mới ra.
Alpha A550 là phiên bản ống kính rời tầm trung mới nhất của Sony nhằm hướng đến những người đam mê nhiếp ảnh hoặc muốn nâng cấp từ dòng DSLR bình dân. Song hành cạnh "đàn em" A500 ra mắt cùng thời điểm, A550 thể hiện tham vọng của hãng điện tử hàng đầu Nhật Bản trong việc cạnh tranh thị phần với hai "ông lớn" Nikon D90 và Canon EOS 50D. Chất lượng ảnh RAW tốt, tốc độ chụp liên tiếp nhanh và hệ thống điều khiển tiện lợi là những "điểm cộng" rất đáng hoan nghênh ở dòng máy mới này.
Sony Alpha A550
Kiểu dáng của A550 khá giống phiên bản bình dân A380 nhưng thân máy lớn hơn và hệ thống phím phức tạp hơn một chút. Máy có kích thước ba chiều là 137 x 104 x 84 mm và khối lượng chưa kể pin là 600 gram, ngang ngửa model Nikon D90 và hơi nhỏ so với Canon 50D. A550 cầm chắc chắn và đầm tay hơn hẳn so với những "đàn em" thuộc dòng tầm thấp như A230, A330 và A380. Hệ thống nút bố trí khá hợp lý trên mặt máy giúp người dùng điều khiển nhanh các thông số cả khi nhìn qua kính ngắm hay sử dụng chức năng Live View.
Màn hình của A550 có độ lớn 3 inch, độ phân giải 920.000 điểm ảnh. Màn hình này còn có thể lật 90 độ dọc theo hai trục, rất hữu dụng khi sử dụng tính năng ngắm ảnh sống trong các góc chụp khó như cao quá đỉnh đầu hay đặt sát mặt đất. LCD này sử dụng công nghệ Xtra Fine giúp chống lóa và hạn chế các sai lệch màu sắc. Ngoài ra, tính năng Auto Brightness Control còn giúp tự động điều chỉnh độ sáng và tương phản màn hình tùy theo môi trường. Hơi đáng tiếc khi Sony không trang bị cho A550 màn hình phụ thứ hai trên mặt máy như các model tầm trung của Canon và Nikon. Bù lại, giao diện máy được thiết kế rất đơn giản với hai tùy chọn: hiển thị các thông số cơ bản với hình vẽ minh họa hoặc hiển thị toàn bộ các thiết lập với biểu tượng nhỏ hơn.
Sony cung cấp cho A550 hai chế độ Live View rất thú vị. Với kiểu ngắm sống thông thường, ánh sáng từ ống kính sẽ được dẫn tới một cảm biến nhỏ đặt gần ống ngắm quang. Cảm biến này sẽ thu nhận và truyền tải hình ảnh xuống LCD. Tuy nhiên, theo Cameralabs, phương pháp này khá tệ khi chỉ cho phép hiển thị 90% khung hình, nhỏ hơn cả độ phủ của viewfinder. Tỷ lệ hiển thị cũng không đạt tới 1:1 nên hơi khó cho việc lấy nét tay và điều chỉnh các sai lệch về trường nhìn và góc ngắm. Ngoài ra, việc lắp đặt thêm một cảm biến trong buồng lăng kính năm mặt cũng ảnh hưởng tiêu cực tới độ phóng đại của kính ngắm quang học. Viewfinder trên A550 có độ phủ khoảng 95% và hệ số phóng đại đạt 0,8x, thua xa tỷ lệ 0,94x trên Nikon D90 và 0,95x trên Canon 50D. Khi chuyển sang chế độ ngắm sống thứ hai (MF Check Live view), gương phản xạ sẽ bật lên và ánh sáng truyền thẳng tới cảm biến chính của máy. Màn hình hiển thị 100% khung hình và cho phép phóng đại vùng lấy nét lên tới 14 lần để kiểm tra độ chính xác của việc lấy nét bằng tay.
Cảm quang CMOS Exmor của A550 có kích cỡ 23,4 x 15,6 mm và độ phân giải 14,2 Megapixel. Công nghệ chống rung thân máy SteadyShot làm việc với tất cả ống kính tương thích. Thử nghiệm cho thấy, cơ chế này làm việc rất hoàn hảo, giúp nâng thời gian phơi sáng lên tới 2,5 đến 4 stop mà không sợ bị nhòe hình. Theo Dpreview, ảnh thu được có độ chi tiết cao, tuy nhiên, chất lượng JPEG xuất ra vẫn chưa thật sự tương xứng với đẳng cấp cảm biến trang bị trên máy. Khi chuyển sang ảnh RAW, vấn đề này sẽ được giải quyết. Chất lượng ảnh thô thu được có thể ngang ngửa với các đối thủ cùng tầm và có thể sử dụng tốt tại thiết lập ISO lên tới 3.200. Tính năng tự động tối ưu hóa dải tương phản hoạt động rất tuyệt vời, giúp kiểm soát tốt chi tiết trên các vùng thiếu và thừa sáng. Tuy vậy, theo Dpreview, cân bằng trắng đôi khi hoạt động thiếu chính xác khiến ảnh có xu hướng bị ngả về gam lạnh hay đôi khi tương phản và màu bị đẩy cao quá mức.
Thử nghiệm
Dải ISO của máy trong khoảng từ 200 đến 12.800, tăng từng nấc 1 EV. Tính năng khử nhiễu tại trên A550 được đánh giá tốt hơn model A500 và các phiên bản Alpha bình dân khác. Theo Cameralabs, tại thiết lập mặc định, máy có xu hướng khử nhiễu hơi mạnh khiến ảnh bị bết màu và mất nhiều chi tiết. Bù lại, ảnh trông sạch và mịn hơn. Sạn nhỏ có thể phát hiện thấy ở một số vùng tối trên ảnh ngay cả khi ISO được thiết lập ở mức thấp, đặc biệt khi tính năng tối ưu dải tương phản được bật.
Các thông số thử nghiệm của Dpreview cho thấy máy có tốc độ thực thi nhanh nhưng chưa thật sự ấn tượng. Thời gian khởi động mất khoảng 0,5 giây so với tốc độ dưới 0,1 giây trên D90 và 50D. Thời gian chờ giữa hai ảnh đơn là khoảng 0,9 giây, ngang ngửa 50D nhưng hơi kém hơn D90 (0,6 giây). Bù lại, tốc độ chụp liên tiếp của máy khá "khủng". A550 có thể chụp 5 ảnh RAW mỗi giây, nhỉnh hơn D90 với 4,5 hình/giây nhưng lại thua 50D với 6,3 hình/giây. Trong chế độ chụp ưu tiên tốc độ (Speed Priority), A550 có thể đạt tới 7,1 hình/giây, liên tục 13 ảnh RAW hoặc 7 ảnh RAW+JPEG.
Điểm đáng tiếc ở A550 là máy không được trang bị chức năng quay phim vốn rất được ưa chuộng trên các dòng DSLR mới ra hiện nay. Ngoài ra, máy cũng không có tính năng cho phép xem trước độ sâu trường ảnh (DOF) như các đối thủ tầm trung đến từ Canon và Nikon. Sản phẩm đang được bán với giá khoảng 950 USD cho thân máy hoặc 1.050 USD cho bộ kit gồm thân máy và ống kính 18-55mm DT.
=============
Sony A580
Thiết kế của A560 và A580 được dựa trên hai phiên bản tiền nhiệm A500 / A550, kiểu dáng vẫn giữ nguyên nhưng được thay đổi một số chi tiết có thể dễ dàng nhận thấy. Đó là việc bổ sung nút kích hoạt chế độ quay phim full HD, tích hợp micro kép ở hai bên chân gắn đèn flash, thay đổi cấu tạo và chức năng sử dụng của bánh xe chức năng. Bên cạnh đó người dùng vẫn có thể dễ dàng nhận thấy những ưu điểm của dòng máy Alpha A500 sê-ri như kích thước gọn gàng, cách bố trí nút hợp lý hơn như công tắc nguồn được lồng bên ngoài vị trí nút chụp, dãy phím Fn và các phím chức năng chuyên dụng được phát huy tối đa.
Sony Alpha A560 và A580 sử dụng màn hình gập 3 inch Xtra Fine độ phân giải 921,000 pixel mang lại chất lượng hiển thị hình ảnh tốt. Cả hai màn hình đều có cảm biến ánh sáng để điều chỉnh cho phù hợp với môi trường người sử dụng. Khung ngắm có độ phủ 95% diện tích khung ảnh với độ phóng đại 0.8x. Giao diện của A560 / A580 giúp cho người dùng mới sử dụng máy ảnh DSLR có cái nhìn trực quan hơn về sự biến đổi của tốc độ và khẩu độ trong khi chụp. Ngoài ra, việc điều chỉnh thông số trực tiếp qua phím Fn (Function) cũng rất dễ dàng nhờ việc tương tác trực tiếp trên LCD. Bạn dễ dàng nắm bắt các thông số ngay cả khi ngắm chụp Live View thì không một menu phụ hiện ra che lấp khung hình đang ngắm.
Sony đã thiết kế mới hệ thống lấy nét 15-điểm với các ô vuông có kích thước lớn giúp lấy nét chính xác và nhanh hơn. Các điểm lấy nét này có thể bắt theo chuyển động hỗ trợ người chụp trong các chế độ chụp ảnh tốc độ, hỗ trợ tính năng báo hiệu lấy nét đúng trong khi chọn lấy nét tay (MF), gọi là AF confirm. Mức nhạy sáng cũng được mở rộng từ 100 - 12800, trong đó có thể kéo đến mức 25600. Sony còn đưa ra chế độ Multi-frame noise reduction, bằng việc thiết lập 1 dải ISO, máy sẽ tự động chụp nhiều tấm và ghép lại để khử nhiễu tối đa.
=============
A700
Sau thành công của A100, chiếc D-SLR đầu tiên, Sony đã quyết định mở rộng dòng máy ảnh số ống kính đơn Alpha của mình bằng sản phẩm thứ hai mang tên A700, với cảm biến ảnh 12,2 Megapixel, hệ thống ổn định ảnh và cổng ra HDMI.
Đây là một phần trong nỗ lực của Sony nhằm bắt kịp hai đối thủ Canon và Nikon trong mảng máy ảnh số ống kính đơn. Hiện D-SLR đang là phân khúc thị trường có tốc độ tăng trường nhanh nhất trong ngành công nghiệp nhiếp ảnh. Dù đang là hãng máy ảnh lớn thứ hai thế giới (sau Canon), nhưng nếu xét riêng trong mảng sản phẩm D-SLR, Sony chỉ đứng thứ 3 (sau cả Nikon). Với việc ra mắt A700, Sony hy vọng thị phần máy ảnh số ống kính đơn của mình sẽ tăng từ 7% hiện nay lên mức 10%.
Cảm biến Exmor CMOS của A700 có độ phân giải 12,2 Megapixel, được tích hợp hệ thống giảm nhiễu ngay bên trong cảm biến. Ngoài ra, chiếc D-SLR mới của Sony còn được trang bị hệ thống ổn định ảnh SuperSteadyShot và có khả năng tương thích với cả ống kính Sony và ống kính Minolta Maxxum.
A700 sở hữu một màn hình LCD 3 inch, tốc độ trập 1/8.000, và có khả năng chụp liên tiếp với tốc độ 5 khung hình/giây. Đối với định dạng ảnh RAW, máy có thể chụp liên tiếp 18 bức một lần.
Chiếc D-SLR thứ hai của Sony còn được trang bị một cổng ra HDMI, giúp máy có thể kết nối với các TV HD để xem ảnh trên những màn hình rộng, độ phân giải cao. Ngoài ra, chiếc máy ảnh số ống kính đơn này còn có các khe cắm thẻ nhớ riêng biệt, dành cho các định dạng thẻ Memory Stick Duo, Memory Stick PRO-HG và Compact Flas I/II.
A33
- Máy hỗ trợ các loại thẻ nhớ SD/SDHC/SDXC và MemoryStick Pro Duo, cho phép lưu dưới dạng file JPEG, ARW RAW, và RAW + JPEG.
- Quay video với độ phân giải 1.920 x 1.080 pixel, 30 khung hình/giây, AVCHD