
Phân tích dùm e vai trò của luật kinh tê?

Vai trò của pháp luật kinh tế đối với việc tạo ra các đảm bảo cho việc thực hiện tự do kinh doanh thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Pháp luật kinh tế bảo vệ những hoạt động thúc đẩy tự do kinh doanh, đồng thời hạn chế những hoạt động xâm phạm hoặc cản trở tự do kinh doanh.
Những hoạt động mà pháp luật kinh tế cho phép và khuyến khích thực hiện bao gồm:
1. Cạnh tranh lành mạnh;
2. Hạn chế độc quyền;
3. Quyền tự định đoạt của doanh nghiệp trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh;
4. Tự do hợp đồng;
Những hoạt động mà pháp luật kinh tế cấm hoặc hạn chế bao gồm:
1. Độc quyền, hạn chế cạnh tranh;
2. Vi phạm quyền sở hữu công nghiệp;
3. Vi phạm nghĩa vụ cam kết;
4. Gian lận thương mại;
5. Lừa đảo v.v…
- Pháp luật kinh tế tạo ra cơ chế xử lý nhanh chóng các tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện quyền tự do kinh doanh phụ thuộc không chỉ vào sự đảm bảo của Nhà nước trong việc xác lập các yếu tố cần thiết của nó mà còn phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm của các đối tác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư hay doanh nghiệp sẽ không tiến hành sản xuất kinh doanh được một cách đầy đủ nếu những hợp đồng, những giao kết kinh tế mà họ tham gia không được thực hiện đầy đủ. Nhà đầu tư dù có kinh doanh dưới một loại hình doanh nghiệp luật định, được đảm bảo đầy đủ quyền tự quyết định các vấn đề sản xuất kinh doanh, vẫn khó có thể thực hiện trọn vẹn quyền tự do kinh doanh, nếu những cam kết mà họ đã đưa ra không được thực hiện. Thông thường, các hợp đồng, các giao kết kinh tế mà các doanh nghiệp tham gia đều nhằm vào mục đích chủ yếu là huy động vốn, mua sắm trang thiết bị, nguyên liệu, thuê lao động và tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ không kinh doanh được, nếu các nghĩa vụ này thường xuyên bị vi phạm mà không có bất cứ cơ chế nào để đảm bảo thực hiện chúng. Bằng các chế tài kinh tế, pháp luật kinh tế buộc các bên phải tôn trọng các hợp đồng đã ký kết. Bên cạnh đó, pháp luật còn tác động đến các chủ thể tham gia các hợp đồng trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp. Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp thường được xây dựng trên nguyên lý đảm bảo tự do kinh doanh kể cả trong việc lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp. Các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc khởi kiện hoặc không khởi kiện các đối tác của mình hoặc sử dụng các phương thức như hòa giải, thương lượng để giải quyết các tranh chấp. Pháp luật tôn trọng quyền tự quyết của doanh nghiệp vì chỉ có doanh nghiệp mới hiểu rõ đối tác của mình, hiểu rõ cái lợi, cái hại khi khởi kiện đối tác. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, pháp luật vẫn để dành cho doanh nghiệp cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Khi xét thấy những vi phạm từ phía đối tác có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do kinh doanh của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có đủ những biện pháp để tự bảo vệ.
- Pháp luật quy định những lĩnh vực cấm và hạn chế đối với doanh nghiệp. Việc xác lập những lĩnh vực cấm hoặc hạn chế đối với kinh doanh là một hoạt động mang nặng tính chất quản lý nhà nước, song lại có ý nghĩa rất to lớn đối với việc xác lập quyền tự do kinh doanh. Quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp (1999) cũng đã cho thấy ảnh hưởng của việc quy định các lĩnh vực bị cấm hay bị hạn chế kinh doanh đối với việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, cụ thể là đối với việc thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh. Trong một thời gian dài, các cơ quan có thẩm quyền lúng túng trong việc cho đăng ký kinh doanh hay không cho đăng ký kinh doanh đối với những người tổ chức công ty cung cấp dịch vụ vệ sĩ hay thám tử tư. Tương tự như vậy, có thể nói về các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Sự thiếu vắng những quy định về vấn đề này có ảnh hưởng lớn đối với việc xác lập quyền tự do kinh doanh. Ảnh hưởng của việc xác lập những lĩnh vực cấm và hạn chế đối với kinh doanh thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nếu các lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế kinh doanh không được xác định rõ thì doanh nghiệp và các nhà đầu tư luôn bị đặt trong một tình trạng rủi ro. Việc Nhà nước buộc các nhà đầu tư phải giải thể doanh nghiệp, chấm dứt hoạt động kinh doanh mà họ đã thực hiện trong một lĩnh vực cụ thể, do trước đó không có những quy định rõ ràng về cấm hay hạn chế đối với họ, sẽ gây tổn thất to lớn cho họ, làm cho họ mất niềm tin vào sự đảm bảo quyền tự do kinh doanh từ phía Nhà nước.
Thứ hai, việc quy định quá nhiều lĩnh vực bị cấm hoặc bị hạn chế một mặt dễ tạo ra những chướng ngại cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh và mặt khác dẫn đến sự độc quyền của một số doanh nghiệp được phép kinh doanh trong những lĩnh vực như vậy.