Câu hỏi

01/06/2013 11:19
Vì sao giá ôtô Việt Nam cao ngất ngưởng?
Danh sách câu trả lời (1)

Thanh tra Bộ Tài chính khẳng định: "Giá linh kiện nhập khẩu cao, thấp hoàn toàn phụ thuộc vào sự kê khai của các liên doanh. Các cơ quan quản lý Nhà nước không quản lý, giám sát được giá linh kiện, phụ tùng đầu vào nhập khẩu của các công ty sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước". Việc không quản lý được khiến "yếu tố chi phí có tác động rất lớn làm tăng giá thành và giá bán ôtô sản xuất, lắp ráp trong nước" - Thanh tra kết luận...
Các hãng xe lắp ráp trong nước đều có giá cao hơn nhiều so với xe cùng loại trong khu vực và thế giới.
Giá một chiếc Toyota Corolla 1.8MT sản xuất trong nước tại thời điểm 8/11/2008 là 19.532 USD, trong khi xe cùng loại bán ở nước ngoài là 15.350 USD. Xe Toyota Camry 3.5 sản xuất trong nước có giá 38.510 USD trong khi giá thế giới từ 24.215 - 28.695 USD, xe ôtô Toyota Camry 2.4 sản xuất trong nước là 29.539 USD, trong khi giá bán cùng loại ở nước ngoài là từ 20.510 - 25.575 USD….
Các doanh nghiệp "phớt lờ" cam kết nâng tỷ lệ nội địa hóa
Sau khi thanh tra 6 doanh nghiệp lắp ráp, kinh doanh xe ôtô trong nước gồm: Công ty Toyota Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam, Công ty Ôtô Việt Nam Daewoo, Công ty TNHH Việt Nam Suzuki, Công ty TNHH Ford Việt Nam Và Công ty TNHH Liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao, Thanh tra Bộ Tài chính vừa có kết luận: Mặc dù có nhiều lợi thế về điều kiện sản xuất kinh doanh như chi phí nhân công rẻ, được hưởng nhiều ưu đãi về đầu tư của Chính phủ nhưng ở cả 6 doanh nghiệp này giá bán lẻ ôtô lắp ráp, sản xuất trong nước đều cao hơn giá cùng loại bán trên thị trường thế giới.
Thanh tra Bộ Tài chính khẳng định, việc thực hiện chương trình nội địa hóa tại các công ty trên đều rất thấp so với những cam kết về tỷ lệ nội địa hóa như giấy phép đầu tư được Bộ KH-ĐT cấp lần đầu. Kết quả thanh tra cho thấy, trong số những đơn vị trên đơn vị thực cam kết "nghiêm chỉnh" nhất là Honda Việt Nam thì đến hết năm 2007, tỷ lệ linh kiện phụ tùng sản xuất trong nước mới đạt bình quân 10% giá trị xe.
Kế đến là Toyota Việt Nam, đến năm 2007 tỷ lệ linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước bình quân mới đạt 7% giá trị xe. Trong khi đó, theo Giấy phép đầu tư cấp lần đầu thì Toyota Việt Nam phải đạt tỷ lệ này ít nhất là 30% giá trị xe sau 10 năm kể từ năm 1996 - năm bắt đầu sản xuất kinh doanh.
Cũng tương tự như vậy theo Giấy phép đầu tư cấp lần đầu cho Việt Nam Suzuki cũng đưa ra yêu cầu sau 10 năm kể từ 1996 phải sử dụng linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước đạt ít nhất 38,2% giá trị xe. Nhưng đến hết năm 2007 đơn vị này cũng mới chỉ đạt 3%. Thấp nhất về tỷ lệ nội địa hóa trong số những đơn vị này là Công ty Ford Việt Nam, với tỷ lệ 2% so với 30% đặt ra ban đầu. Hai công ty còn lại là Việt Nam Daewoo và Liên doanh Ngôi Sao cùng đạt 4%...
Theo cơ quan thanh tra thì Giấy phép đầu tư được Bộ KH-ĐT cấp đều có sự ràng buộc về lộ trình thực hiện nội địa hóa sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước. Tuy nhiên nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp phớt lờ cam kết bởi thiếu sự kiểm tra, giám sát và thiếu chế tài xử lý, không có ràng buộc pháp lý rõ ràng. Điển hình là chính sách tính thuế theo bộ linh kiện theo hướng khuyến khích nội địa hóa. Cụ thể là những linh kiện trong nước đã sản xuất được phải nhập khẩu chịu thuế suất cao, linh kiện trong nước chưa sản xuất được thì thuế suất rất thấp.
Vì sự bất hợp lý này, chính sách nội địa hóa ôtô sẽ càng gặp nhiều khó khăn và thiếu cạnh tranh hơn khi càng gần thời điểm năm 2018 - khi thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng ôtô khu vực ASEAN bằng 0%. Bên cạnh đó, không thể không kể đến chính sách quy hoạch và phát triển các ngành Công nghiệp phụ trợ ôtô trong nước chưa đồng bộ, chưa theo kịp với sự phát triển của các liên doanh.
Công nghệ lạc hậu, giá bán cao
Theo Thanh tra Bộ Tài chính, đến năm 2008, cả 6 công ty nói trên đều có dây chuyển sản xuất, lắp ráp ôtô lạc hậu, chủ yếu là lắp ráp thủ công đã làm tăng giá thành sản xuất. Song hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới giá thành xe ôtô là chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu và chi phí nhập khẩu linh kiện, phụ tùng cao.
Đối với dòng xe từ 5 chỗ trở xuống, 2 sắc thuế này chiếm khoảng 33% giá bán. Linh kiện, phụ tùng nhập khẩu chiếm tới 48% giá bán buôn xe ôtô cũng khiến giá ôtô trong nước bị đẩy lên cao.
Tuy nhiên, Thanh tra Bộ Tài chính khẳng định: "Giá linh kiện nhập khẩu cao, thấp hoàn toàn phụ thuộc vào sự kê khai của các liên doanh. Các cơ quan quản lý Nhà nước không quản lý, giám sát được giá linh kiện, phụ tùng đầu vào nhập khẩu của các công ty sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước". Việc không quản lý được khiến "yếu tố chi phí có tác động rất lớn làm tăng giá thành và giá bán ôtô sản xuất, lắp ráp trong nước" - Thanh tra kết luận...
Bên cạnh đó, Thanh tra Bộ Tài chính cũng làm rõ việc Bộ KH-ĐT và UBND tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện miễn, giảm thuế trong Giấy phép đầu tư không đúng chế độ cho Công ty Honda Việt Nam và Công ty Toyota Việt Nam… Đoàn thanh tra cũng yêu cầu các công ty sản xuất, lắp ráp ôtô phải rà soát lại việc tính thuế GTGT đối với toàn bộ đại lý trong 2 năm 2007-2008 để tính và kê khai bổ sung thuế GTGT do khi nhập khẩu linh kiện thuế suất thuế GTGT áp dụng là 10% nhưng khi công ty xuất bán cho các đại lý lại chỉ tính thuế suất 5%…
Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đặt ra: Về các loại xe thông dụng (xe tải, xe khách, xe con): Đáp ứng khoảng 40 - 50% nhu cầu thị trường trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước đến 40% vào năm 2005; đáp ứng trên 80% nhu cầu thị trường trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 60% vào năm 2010; các loại xe du lịch cao cấp phấn đấu đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 20 - 25% vào năm 2005 và 40 - 45% vào năm 2010, đáp ứng phần lớn nhu cầu thị trường trong nước…

Các hãng xe lắp ráp trong nước đều có giá cao hơn nhiều so với xe cùng loại trong khu vực và thế giới.
Giá một chiếc Toyota Corolla 1.8MT sản xuất trong nước tại thời điểm 8/11/2008 là 19.532 USD, trong khi xe cùng loại bán ở nước ngoài là 15.350 USD. Xe Toyota Camry 3.5 sản xuất trong nước có giá 38.510 USD trong khi giá thế giới từ 24.215 - 28.695 USD, xe ôtô Toyota Camry 2.4 sản xuất trong nước là 29.539 USD, trong khi giá bán cùng loại ở nước ngoài là từ 20.510 - 25.575 USD….
Các doanh nghiệp "phớt lờ" cam kết nâng tỷ lệ nội địa hóa
Sau khi thanh tra 6 doanh nghiệp lắp ráp, kinh doanh xe ôtô trong nước gồm: Công ty Toyota Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam, Công ty Ôtô Việt Nam Daewoo, Công ty TNHH Việt Nam Suzuki, Công ty TNHH Ford Việt Nam Và Công ty TNHH Liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao, Thanh tra Bộ Tài chính vừa có kết luận: Mặc dù có nhiều lợi thế về điều kiện sản xuất kinh doanh như chi phí nhân công rẻ, được hưởng nhiều ưu đãi về đầu tư của Chính phủ nhưng ở cả 6 doanh nghiệp này giá bán lẻ ôtô lắp ráp, sản xuất trong nước đều cao hơn giá cùng loại bán trên thị trường thế giới.
Thanh tra Bộ Tài chính khẳng định, việc thực hiện chương trình nội địa hóa tại các công ty trên đều rất thấp so với những cam kết về tỷ lệ nội địa hóa như giấy phép đầu tư được Bộ KH-ĐT cấp lần đầu. Kết quả thanh tra cho thấy, trong số những đơn vị trên đơn vị thực cam kết "nghiêm chỉnh" nhất là Honda Việt Nam thì đến hết năm 2007, tỷ lệ linh kiện phụ tùng sản xuất trong nước mới đạt bình quân 10% giá trị xe.
Kế đến là Toyota Việt Nam, đến năm 2007 tỷ lệ linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước bình quân mới đạt 7% giá trị xe. Trong khi đó, theo Giấy phép đầu tư cấp lần đầu thì Toyota Việt Nam phải đạt tỷ lệ này ít nhất là 30% giá trị xe sau 10 năm kể từ năm 1996 - năm bắt đầu sản xuất kinh doanh.
Cũng tương tự như vậy theo Giấy phép đầu tư cấp lần đầu cho Việt Nam Suzuki cũng đưa ra yêu cầu sau 10 năm kể từ 1996 phải sử dụng linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước đạt ít nhất 38,2% giá trị xe. Nhưng đến hết năm 2007 đơn vị này cũng mới chỉ đạt 3%. Thấp nhất về tỷ lệ nội địa hóa trong số những đơn vị này là Công ty Ford Việt Nam, với tỷ lệ 2% so với 30% đặt ra ban đầu. Hai công ty còn lại là Việt Nam Daewoo và Liên doanh Ngôi Sao cùng đạt 4%...
Theo cơ quan thanh tra thì Giấy phép đầu tư được Bộ KH-ĐT cấp đều có sự ràng buộc về lộ trình thực hiện nội địa hóa sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước. Tuy nhiên nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp phớt lờ cam kết bởi thiếu sự kiểm tra, giám sát và thiếu chế tài xử lý, không có ràng buộc pháp lý rõ ràng. Điển hình là chính sách tính thuế theo bộ linh kiện theo hướng khuyến khích nội địa hóa. Cụ thể là những linh kiện trong nước đã sản xuất được phải nhập khẩu chịu thuế suất cao, linh kiện trong nước chưa sản xuất được thì thuế suất rất thấp.
Vì sự bất hợp lý này, chính sách nội địa hóa ôtô sẽ càng gặp nhiều khó khăn và thiếu cạnh tranh hơn khi càng gần thời điểm năm 2018 - khi thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng ôtô khu vực ASEAN bằng 0%. Bên cạnh đó, không thể không kể đến chính sách quy hoạch và phát triển các ngành Công nghiệp phụ trợ ôtô trong nước chưa đồng bộ, chưa theo kịp với sự phát triển của các liên doanh.
Công nghệ lạc hậu, giá bán cao
Theo Thanh tra Bộ Tài chính, đến năm 2008, cả 6 công ty nói trên đều có dây chuyển sản xuất, lắp ráp ôtô lạc hậu, chủ yếu là lắp ráp thủ công đã làm tăng giá thành sản xuất. Song hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới giá thành xe ôtô là chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu và chi phí nhập khẩu linh kiện, phụ tùng cao.
Đối với dòng xe từ 5 chỗ trở xuống, 2 sắc thuế này chiếm khoảng 33% giá bán. Linh kiện, phụ tùng nhập khẩu chiếm tới 48% giá bán buôn xe ôtô cũng khiến giá ôtô trong nước bị đẩy lên cao.
Tuy nhiên, Thanh tra Bộ Tài chính khẳng định: "Giá linh kiện nhập khẩu cao, thấp hoàn toàn phụ thuộc vào sự kê khai của các liên doanh. Các cơ quan quản lý Nhà nước không quản lý, giám sát được giá linh kiện, phụ tùng đầu vào nhập khẩu của các công ty sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước". Việc không quản lý được khiến "yếu tố chi phí có tác động rất lớn làm tăng giá thành và giá bán ôtô sản xuất, lắp ráp trong nước" - Thanh tra kết luận...
Bên cạnh đó, Thanh tra Bộ Tài chính cũng làm rõ việc Bộ KH-ĐT và UBND tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện miễn, giảm thuế trong Giấy phép đầu tư không đúng chế độ cho Công ty Honda Việt Nam và Công ty Toyota Việt Nam… Đoàn thanh tra cũng yêu cầu các công ty sản xuất, lắp ráp ôtô phải rà soát lại việc tính thuế GTGT đối với toàn bộ đại lý trong 2 năm 2007-2008 để tính và kê khai bổ sung thuế GTGT do khi nhập khẩu linh kiện thuế suất thuế GTGT áp dụng là 10% nhưng khi công ty xuất bán cho các đại lý lại chỉ tính thuế suất 5%…
Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đặt ra: Về các loại xe thông dụng (xe tải, xe khách, xe con): Đáp ứng khoảng 40 - 50% nhu cầu thị trường trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước đến 40% vào năm 2005; đáp ứng trên 80% nhu cầu thị trường trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 60% vào năm 2010; các loại xe du lịch cao cấp phấn đấu đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 20 - 25% vào năm 2005 và 40 - 45% vào năm 2010, đáp ứng phần lớn nhu cầu thị trường trong nước…
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi lĩnh vực Ô tô, xe máy, xe đạp
Rao vặt Siêu Vip