
Cách Giao tiếp cùng bé trong năm đầu đời ?

Tạo những kết nối
Trong năm đầu tiên chào đời, rất nhiều điều kỳ diệu mang tính chuyển biến quyết định xảy ra ở trẻ em như trẻ tăng gấp 3 cân nặng so với khi mới sinh, trẻ chuyển từ lẫy, bò sang đi đứng, chạy nhảy, từ bập bẹ sang nói, hát. Điều ngạc nhiên là trẻ sớm có thể hiểu được ngôn ngữ trước khi trẻ học nói: đến tháng thứ 6 là trẻ có thể ý thức về tên gọi cũng như bản thân là một cá nhân độc lập. Sự phát triển của khả năng ngôn ngữ song hành với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội. Não bộ là nơi tiếp nhận, hình thành ngôn ngữ, và trẻ em ở bất cứ nơi đâu trên thế giới cũng đều tiếp thu ngôn ngữ theo cùng một cơ chế như nhau, sự phát triển của kỹ năng này lại là tiền đề cho sự phát triển của kỹ năng kia: như kỹ năng xã hội và cảm xúc phát triển cùng với sự vận động, kỹ năng giao tiếp hoàn thiện cùng với tư duy.
Các giai đoạn quan trọng đầu đời xảy ra trong thời điểm linh hoạt; tuy nhiên nghiên cứu cũng chỉ ra là trong thời đoạn nhất định, phụ huynh sẽ quan sát thấy được những chuyển biến trong khả năng của trẻ. Nên lưu ý rằng không có một thời điểm nào nhất định để trẻ biểu lộ sự tiếp thu các khả năng, và thời gian để phát triển “bình thường” cũng rất khác nhau đối với mỗi trẻ vì mỗi đứa trẻ phát triển và điều chỉnh để tương thích với xã hội bên ngoài theo nhịp riêng của chính mình. FasTracKids-Bé thông minh xin đưa ra những diễn biến khái quát về quá trình phát triển khả năng ngôn ngữ và sự tác động của quá trình này lên sự phát triển chung của trẻ trong giai đoạn 5 năm đầu đời.
Trong năm đầu tiên kể từ khi chào đời
Trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ ở một tốc độ đáng kinh ngạc. Ngạc nhiên là tất cả những kỹ năng này đều được hình thành từ giai đoạn mới chào đời/sơ sinh, và phát triển nhanh chóng ở những năm đầu đời. Trẻ 1 tháng tuổi đã biết phản ứng với giọng nói, 3 tháng đã biết nhại theo những âm thanh khác nhau, và đến 4 tháng đã biết quay mặt đi tìm nguồn âm trong phòng. Trẻ biết chỉ trỏ bằng tay để biểu thị nhu cầu, biết dùng nét mặt để biểu lộ hạnh phúc, lo âu, khó chịu và nhất là trẻ sẽ bắt chước những hành động của cha mẹ.
Từ khi sinh ra cho đến 4 tháng tuổi
- Biết mấp máy môi rồi đến bập bẹ: Đây là những âm thanh chủ ý đầu tiên từ trẻ ngoài tiếng khóc chào đời.
- Tiếp đến những âm thanh Ồ À, có thể trẻ chưa có thể diễn đạt bằng lời, nhưng sự gia tăng kiểm soát ở các cơ thanh âm và một hệ thống gọi là phản hồi thính giác cho phép trẻ trở nên quen thuộc với âm thanh ngôn ngữ.
- Cười sảng khoái để hưởng ứng hoặc tự cười.
- Phản ứng lại với giọng nói bằng cách yên lặng, lắng nghe và quay đầu; mở to mắt hoặc tỉnh giấc vì tiếng nói lạ trong phòng yên tĩnh.
- Đến 3 tháng trẻ có thể phân biệt giữa giọng mẹ và giọng những người phụ nữ khác.
- Biết gây tiếng động để gây sự chú ý – tặc lưỡi, mấp máy, bập bẹ, ríu rít và cả khóc nhè.
- Đến 4 tháng trẻ có thể hiểu và phản ứng theo nhịp nói chuyện của người chăm sóc.
Từ 5 đến 8 tháng
- Có thể phát ra được 3 hay nhiều âm thanh hơn trong 1 lần hít thở
- Hưởng ứng khi được gọi tên bằng cách nhìn ngó, lắng nghe, mỉm cười và yên lặng.
- Biết cách gây sự chú ý bằng tiếng nói.
- Có thể định hướng nguồn âm không trong tầm mắt
- Cười, ríu rít, mấp máy môi với những người quen, đặc biệt là khi chơi.
- Bắt đầu tìm kiếm âm thanh mới lạ.
Từ 9 đến 12 tháng trẻ bắt đầu
- Bắt chước âm thanh
- Lắng nghe những từ quen thuộc
- Biết nói “không” và lắc đầu.
- Biết nói 2 hoặc 3 từ với bố, mẹ trong khi những người khác có thể không hiểu.
- Gọi Bố, Mẹ như là tên riêng của phụ huynh.
- Sáng tạo những từ ngữ riêng để gọi tên đồ vật hoặc ai đó, bập bẹ các âm thanh nghe giống như đang nói chuyện với ngữ điệu không giống nhau.
- Biết vẫy tay khi nghe những yêu cầu bằng ngôn ngữ.
- Hưởng ứng những trò chơi tương tác như trò ú tim.
- Bắt đầu nhận ra vật/hình ảnh qua tên gọi.
- Đáp lại những chỉ dẫn đơn giản như “giơ tay lên nào”, “mũi của con đâu”
- Hiểu được 100 từ.
Cột mốc 2 tuổi
Giữa 14 và 18 tháng tuổi trẻ sẽ
- Biết nói rõ ràng 4 từ trở lên
- Gọi tên một vài đồ vật nếu có ai đó chỉ trỏ đến chúng
- Biết gọi tên các con vật và đồ vật thông thường.
- Sử dụng ít nhất là một từ để diễn đạt ý. Ví dụ, con bạn có thể nói “Ăn”.
- Biết gọi, hỏi đồ vật bằng tên đồ vật đó.
- Tự sáng tác ra những từ ngữ đầy ý nghĩa.
- Bập bẹ hoặc nói trong điện thoại đồ chơi và giả vờ như đang trò chuyện.
- Biết nghe một số yêu cầu đơn giản.
Từ 18 đến 20 tháng trẻ sẽ
- Biết lắng nghe những câu chuyện ngắn hoặc âm nhạc
- Phân biệt âm thanh; nhại lại các từ và âm thanh thường xuyên hơn.
- Sử dụng 10-15 hoặc nhiều từ khác nhau.
- Nghe theo các chỉ dẫn bằng lời nói, ví dụ như để bút chì ở trên bàn.
- Có thể bắt đầu biết “hát” theo những giai điệu đơn giản.
Cột mốc từ 3 tuổi
Khi tròn 2 tuổi trẻ sẽ
- Sử dụng những câu đơn giản
- Biết phân biệt người theo tên riêng
- Biết phối hợp giữa các từ với nhau tạo nên câu có cả danh từ, động từ. Ví dụ như ăn bánh quy, thấy cái xe.
- Lắng nghe những câu chuyện ngắn và xác định hành động/nhân vật trong sách.
- Hỏi “Cái gì đây ạ?” hoặc “Của con đâu ạ”
- Nhận dạng các phần cơ thể, quần áo, các đồ vật và hành động thông thường.
- Bắt đầu biết nghe theo những chỉ dẫn 2 bước đơn giản.
- Hiểu những từ trái nghĩa.
- Vốn từ giao tiếp lên đến 300 từ.
- Biết nói “không”, điều này báo hiệu sự chuyển biến trong nhận thức về bản thân và mong muốn độc lập của trẻ.
Khi 3 tuổi trẻ sẽ
- Hiểu được đến 50 000 từ và hầu hết những kỹ năng giao tiếp cần thiết cần cho giao tiếp xã hội.
- Trả lời được các câu hỏi ai, nơi đâu và thế nào.
- Mỗi tháng lại tự bổ sung thêm nhiều từ mới.
- Sử dụng câu có từ 3 đến 4 từ trở lên.
- Sử dụng từ để diễn đạt quan sát, ý nghĩa, ý tưởng.
- Hiểu những khái niệm về thời gian đơn giản: hôm qua, giờ ăn trưa, tối nay.
- Nhận biết màu sắc và tên gọi.
- Biết tên và địa chỉ.
- Có thể ngân nga một số giai điệu đơn giản và hát.
- Biết kể chuyện, mặc dù cấu trúc có thể chưa chính xác.
- Thường xuyên đặt những câu hỏi.
- Có thể phát âm một số phụ âm không khó khăn.
- Có thể đếm nhưng vẫn chưa hiểu rõ khải niệm số lượng.
Trẻ phát triển nhận thức về bản thân như cá thể độc lập, bắt đầu sử dụng từ ngữ để thêm vào, hoặc thay cho hành động khi diễn tả mong muốn hoặc phản ứng. Hết tuổi lên 3, trẻ sử dụng ngôn ngữ để biểu lộ nhu cầu và cảm xúc cũng như tương tác với những đối tượng khác theo một cách phức tạp hơn. Trong khi hành vi và tiếng khóc là cách chính để trẻ sơ sinh giao tiếp, giờ đây trẻ đã có thể sử dụng từ ngữ để kết hợp thành một ý nghĩa thống nhất.
Lên 4 tuổi, trẻ sẽ
- Sử dụng các câu được nối với nhau
- Kể lại những trải nghiệm hoặc những sự kiện đơn giản theo trình tự.
- Hát lại những đoạn lời hát, giai điệu ngắn theo trí nhớ và có thể nói rõ ràng.
- Tranh luận bằng lời nói
- Sử dụng những câu đùa và ngôn ngữ ngô nghê.
- Câu nói đã gồm ít nhất 5 từ.
- Biết diễn những mẩu kịch ngắn.
- Khi nói chuyện có thể trả lời các câu hỏi, đưa ra thêm thông tin, lặp lại và chuyển tải ý tưởng.
- Đặt các câu hỏi vì sao, khi nào, như thế nào và ở đâu.
- Hiểu ý nghĩa của các từ nối như “bởi vì”
- Hiểu và làm theo được 3 mệnh lệnh không liên quan đến nhau.
- Hiểu cấu trúc so sánh như xinh, xinh hơn, xinh nhất.
- Lắng nghe những câu chuyện dài, tuy nhiên có thể “phiên dịch” nhầm một số chi tiết.
- Hiểu trình tự của sự kiện.
Đến 5 tuổi trẻ sẽ
- Hoàn thiện kỹ năng.
- Sử dụng lượng lớn ngôn ngữ và vận dụng linh hoạt vào giao tiếp.
- Vận dụng từ ngữ chính xác hơn.
- Sử dụng ngữ pháp phức tạp hơn cũng như số nhiều và thì chính xác hơn.
- Thể hiện bản thân với tong giọng khác nhau.
Từ khi sinh ra cho tới khi tròn 5 tuổi, sự phát triển diễn ra ở tốc độ nhanh hơn bất kỳ giai đoạn nào trong đời. Trong thời gian này trẻ nhanh chóng phát triển các kỹ năng có thể giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và trở nên thành thạo trong các mối quan hệ xã hội.

Trẻ nhỏ trong năm đầu đời sẽ có nhiều thay đổi từ nụ cười, giọng nói thủ thỉ đến cách học nói “mẹ" hay “bố”, trẻ thích giao tiếp bằng cách của riêng chúng và chúng muốn bạn cũng sẽ nói chuyện với chúng theo cách đó.
Trong năm đầu đời này, bạn có thể dễ dàng khuyến khích trẻ hình thành các kỹ năng giao tiếp chỉ bằng cách mỉm cười, nói chuyện, hát và đọc cho bé. Tại sao phải quan tâm đến vấn đề này? Đó là bởi vì các kỹ năng ngôn ngữ, nói chuyện có liên quan đến sự phát triển kỹ năng đọc, viết và quan hệ giữa người với người sau này. Dưới đây là một số cách để bố mẹ có thể giao tiếp với con, theo Web Md.
Mỉm cười và chú ý
Trước khi trẻ có thể nói rành mạch thì trẻ hiểu ý nghĩa tổng quát của những lời nói của bạn. Bé còn thu nhận giọng điệu cảm xúc của bố mẹ. Do đó, hãy khuyến khích sự cố gắng giao tiếp của con bạn bằng cả sự quan tâm:
- Cười nhiều với con, đặc biệt khi con rù rì hay phát âm bằng ngôn ngữ của con.
- Nhìn con khi con bập bẹ hay cười hơn là nhìn vào đâu đó, nói chuyện với người khác hay ngắt lời, ngắt nụ cười của con.
- Kiên nhẫn vì bạn đang cố gắng giải mã ngôn ngữ giao tiếp không lời của trẻ như cách thể hiện cảm xúc, những âm thanh bập bẹ - biểu hiện của sự giận dữ hay thích thú.
- Dành thời gian để bày tỏ sự quan tâm, tình yêu thương với con. Như thế, con có thể nói chuyện với bạn bằng cách của riêng chúng, ngay cả khi bạn đang bận với việc gì khác.
Nên huyến khích sự giao tiếp bé trong năm đầu đời.
Bắt chước con
Bằng cách bắt chước theo trẻ, bạn sẽ truyền đi tin nhắn quan trọng: con đang cảm thấy thế nào và con muốn trao đổi vấn đề gì với bố mẹ.
- Tạo những cuộc hội thoại qua lại bằng ngôn ngữ của trẻ để dạy trẻ cách nhận và trả lời trong cuộc trò chuyện với người lớn.
- Bắt chước phát âm của trẻ như “pa pa” hay “goo goo”…
- Cố gắng hết sức phản hồi lại bé ngay cả khi bạn không hiểu bé đang muốn nói gì.
- Củng cố khả năng giao tiếp bằng nụ cười và làm theo những biểu hiện cảm xúc của bé.
- Vì những cử chỉ là cách các bé giao tiếp, do đó, bắt chước các cử chỉ đó.
Thường xuyên nói chuyện với bé
Con trẻ rất thích nghe nói chuyện, đặc biệt là nói với chúng với một giọng ấm áp, vui vẻ. Trẻ học cách nói bằng cách bắt chước âm thanh mà chúng nghe thấy. Vì thế, bạn càng nói nhiều thì con học ngôn ngữ và cách nói chuyện càng nhanh.
Rất nhiều phụ huynh dùng một giọng đặc biệt như giọng với âm vực cao cùng với sự cường điệu trong cách thể hiện khi nói chuyện với con. Đây là cách nói mô phỏng giọng nữ - mà trong thế giới của bé là gắn liền với thức ăn và sự ấm áp. Do vậy, đừng sợ rằng cách nói chuyện này sẽ cản trở khả năng học ngôn ngữ của bé sau này.
Luyện khả năng nghe của con bằng cách nói chuyện với con suốt cả ngày, kể về những hoạt động trong ngày của bạn. Nói chuyện với con khi bạn cho con ăn, mặc quần áo cho con, ẵm con và cả khi tắm cho con. Khi đó, con bắt đầu học cách kết nối những âm này với những đồ vật hay hoạt động hằng ngày.
Lặp lại thường xuyên và rõ ràng những từ đơn giản như “mẹ” hay “bình sữa” để con nghe và gắn đồ vật, hiện tượng với ý nghĩa của chúng.
Cách trẻ học nói
Bố mẹ thường tự hỏi khả năng nói chuyện của bé tới đâu. Khoảng thời gian bắt đầu nói của trẻ khác nhau: một số có thể nói vài từ khi mới chỉ 12 tháng nhưng một số khác lại chỉ bắt đầu nói khi được 18 tháng.
- Từ 1 - 3 tháng: Trẻ thích nghe âm thanh từ giọng bạn và có thể mỉm cười, cười to, tỏ ra im lặng hay thích thú và vẫy tay khi bạn nói chuyện hay hát cho trẻ nghe. Con thường bắt đầu nói bằng những âm thanh như “ooh ooh” vào khoảng 2 tháng tuổi.
Không bao giờ là sớm để bắt đầu đọc truyện cho bé. Nghe đọc truyện kích thích phát triển trí não. Nhiều trẻ đang quấy có thể được xoa dịu nhờ âm nhạc và bắt đầu phát hiện các bài hát đơn giản bằng cách cười, nói (theo ngôn ngữ của bé) và vẫy tay, chân.
- Từ 4 - 7 tháng tuổi: Bé bây giờ có thể nhận ra rằng cách nói của bé có tác động lớn đến bố mẹ. Do đó, bé bập bẹ nhiều hơn và quan sát phản ứng của bố mẹ. Trẻ cũng thử nhiều âm thanh và giọng điệu hơn. Chúng bắt đầu nâng âm cao lên hay hạ âm xuống khi bập bẹ giống như khi bố mẹ hỏi các câu hỏi hay nhấn mạnh cái gì.
Khi muốn chỉ cho con vật gì một cách đơn giản với những từ đơn giản như “ly”, “bóng”…, hãy giữ những đồ vật đó để cho con bạn thấy đồ vật đó có liên quan đến từ mà bạn vừa nói. Chọn những cuốn sách đầy màu sắc, chỉ vào bức tranh và nói tên các đồ vật đó để tăng cường khả năng nói chuyện từ sớm cho con.
- Từ 8 - 12 tháng tuổi: Không có gì có thể tả xiết cảm xúc của bố mẹ khi lần đầu tiên nghe con bập bẹ “mẹ” hay “bố”. Tuy nhiên, con ở độ tuổi này thường nói không tròn vành rõ chữ mà lại đọc chệch…
Mỉm cười, nhìn vào con và tiếp tục lặp lại những từ đơn giản một cách rõ ràng. Điều này giúp não bộ của trẻ lưu giữ những âm thanh và ý nghĩa của từng từ của từng đồ vật hằng ngày. Ở độ tuổi này, trẻ thích tương tác trực tiếp giữa bạn và trẻ. Trẻ cũng thích chơi các trò chơi và hát những bài đơn giản.
Đến gặp bác sĩ nếu…
Trong suốt một năm đầu đời, con bạn bình thường sẽ phản ứng, tương tác với bạn bằng cách ríu rít hay bắt đầu bập bẹ. Con sẽ phản hồi lại khi bạn gọi tên con hay những yêu cầu đơn giản như: lại đây nào!
Do đó, mặc dù sự phát triển ngôn ngữ bình thường dao động lớn trong khoảng thời gian bé bắt đầu nói được, nhưng để đảm bảo sự phát triển của con, bạn nên hỏi bác sĩ nếu thấy sự chậm trễ trong vấn đề nghe, nói.
hãy liên hệ: http://suckhoe.xmen360.com chúng tôi sẽ giúp bạn