Câu hỏi

20/05/2013 21:04
Danh nhân khoa học Thế Giới
Danh sách câu trả lời (6)

Những thiên tài toán học “cuồng chữ”
“Điên”, “cuồng chữ” theo đúng nghĩa đen của nó. Những con số nhảy múa không ngừng, những suy luận trừu tượng vượt quá giới hạn tự nhiên, những áp lực vươn tới sự hoàn hảo... như thể đã băm vụn trí óc siêu việt của các thiên tài.
1. Georg Cantor (1845 - 1918): “Chúa trời là một... số vô cực”
Nói về nhà toán học người Đan Mạch Georg Cantor, người ta luôn ca ngợi trí thông minh tuyệt đỉnh của ông với sự ngưỡng mộ, sùng kính, thậm chí còn đôi chút tôn thờ. Lý thuyết tập hợp của Cantor ra đời cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 đã giúp ông giải quyết nhanh gọn “nghịch lý Zénon” dựa trên ý tưởng có thể so sánh hai đại lượng vô hạn với nhau....
Quả thật, những suy luận trừu tượng kiểu này dễ khiến người ta phát điên. Và thiên tài Carton cũng không là ngoại lệ. Về già, ông mắc chứng thần kinh điên loạn, dành trọn những năm cuối đời ngồi tỉ mẩn chứng minh: Chúa trời là một... số vô cực và Francis Bacon đã viết nên những tác phẩm kinh điển của Shakespeare.
2. Alexandre Grothendieck (1928): Nhà toán học ẩn dật
Alexandre Grothendieck đã từng là nhà môi trường và người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản rất tích cực. Năm 30 tuổi, ông trở thành một trong những giáo sư đầu tiên của Viện toán Insitiut des Hautes Etudes Scientifiques ở Pháp, là một trong 6 “giáo sư suốt đời” của IHES đạt giải thưởng danh tiếng Fields, góp phần đưa IHES phát triển thành trung tâm toán học gạo cội của thế giới. Có thể nói, Grothendieck là một trong những nhà toán học có ảnh hưởng quan trọng nhất thế kỷ 20.
Điều vô cùng thú vị, nhân vật tên tuổi lẫy lừng ấy đã tới... Việt Nam giảng dạy và nghiên cứu trong suốt những năm tháng bom đạn ác liệt nhất (năm 1967). Ông không mảy may phiền hà khi những buổi học bị ngắt quãng hàng chục lần vì máy bay, không ngại về các vùng quê xa xôi sơ tán. Thậm chí trước lúc sang Việt Nam, Grothendieck đã giành toàn bộ va-li của mình để mang sách vở sang tặng các nhà toán học nước bạn, do đó chỉ có một bộ quần áo duy nhất mặc trên người.
Năm 42 tuổi, Grothendieck lui về sống ẩn dật tại vùng núi Pyrénées nước Pháp, hạn chế tối đa giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên hàng ngàn trang bản thảo vẫn được ông đều đặn gửi ra cho đồng nghiệp và được lưu truyền trong giới toán học suốt mấy chục năm qua.
3. Oliver Heaviside (1850 - 1925): Nhà phát minh lập dị và điên loạn
Năm 30 tuổi, kỹ sư cơ khí kiêm nhà toán học người Anh Oliver Heaviside đã đưa ra một phát minh vô cùng quan trọng: biến các phương trình vi phân về dạng số học giản đơn. Không thể diễn tả phát minh này đã ảnh hưởng sâu sắc tới việc nghiên cứu bộ môn vi phân - tích phân như thế nào.
Đáng buồn thay đến những năm cuối cùng của cuộc đời, Heaviside vốn dĩ đã sống lập dị lại càng tỏ ra điên loạn hơn. Ông sơn móng tay bằng màu hồng lòe loẹt - hành động quá sức điên rồ ở những năm 1920, tống tháo tất cả mọi đồ đạc trong nhà ra ngoài đường, thay thế bằng những khối đá granite đủ kích thước và hình thù kỳ dị.
4. Walter Petryshyn: Mưu sát vợ vì... hoang tưởng
Năm 1996, cuốn sách về chức năng của hồi quy và tương quan phi tuyến vừa xuất bản thì nhà toán học người Mỹ gốc Ukraina Walter Petryshyn bỗng phát hiện trong đó tồn tại một sai lầm chết người. Áp lực lo sợ bị cộng đồng nghiên cứu dè bỉu nặng nề đã khiến ông hóa điên - theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sự quẫn trí và hoang tưởng đã đưa đẩy ông đến hành vi mưu sát vợ năm 1997.
5. Evariste Galois (1811 - 1832): Bỏ mạng trong một cuộc đấu súng
Có một thực tế đã trở thành chân lý: đã là thiên tài toán học thì không bao giờ xuất sắc trong đấu súng tay đôi. Nhưng dường như chưa ai từng nói điều này cho Evariste Galois - thần đồng toán học người Pháp thế kỷ 19, người đã đóng góp vào ngành số học của nhân loại bằng một lý thuyết nổi tiếng mang chính tên ông (lý thuyết trường Galois).
Tuy nhiên Galois đã không may mắn sống tới lúc tên tuổi được vinh danh. Chàng trai trẻ bỏ mạng trong một cuộc đấu súng khi vừa tròn 20 tuổi. Điều bất thường ở thiên tài này ở chỗ: Ông đã dàn dựng trận đấu y hệt một cuộc phục kích bắt bớ của cảnh sát, với hy vọng cái chết của mình sẽ châm ngòi cho cuộc cách mạng dân chủ sau này.
“Điên”, “cuồng chữ” theo đúng nghĩa đen của nó. Những con số nhảy múa không ngừng, những suy luận trừu tượng vượt quá giới hạn tự nhiên, những áp lực vươn tới sự hoàn hảo... như thể đã băm vụn trí óc siêu việt của các thiên tài.
1. Georg Cantor (1845 - 1918): “Chúa trời là một... số vô cực”
Nói về nhà toán học người Đan Mạch Georg Cantor, người ta luôn ca ngợi trí thông minh tuyệt đỉnh của ông với sự ngưỡng mộ, sùng kính, thậm chí còn đôi chút tôn thờ. Lý thuyết tập hợp của Cantor ra đời cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 đã giúp ông giải quyết nhanh gọn “nghịch lý Zénon” dựa trên ý tưởng có thể so sánh hai đại lượng vô hạn với nhau....
Quả thật, những suy luận trừu tượng kiểu này dễ khiến người ta phát điên. Và thiên tài Carton cũng không là ngoại lệ. Về già, ông mắc chứng thần kinh điên loạn, dành trọn những năm cuối đời ngồi tỉ mẩn chứng minh: Chúa trời là một... số vô cực và Francis Bacon đã viết nên những tác phẩm kinh điển của Shakespeare.
2. Alexandre Grothendieck (1928): Nhà toán học ẩn dật
Alexandre Grothendieck đã từng là nhà môi trường và người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản rất tích cực. Năm 30 tuổi, ông trở thành một trong những giáo sư đầu tiên của Viện toán Insitiut des Hautes Etudes Scientifiques ở Pháp, là một trong 6 “giáo sư suốt đời” của IHES đạt giải thưởng danh tiếng Fields, góp phần đưa IHES phát triển thành trung tâm toán học gạo cội của thế giới. Có thể nói, Grothendieck là một trong những nhà toán học có ảnh hưởng quan trọng nhất thế kỷ 20.
Điều vô cùng thú vị, nhân vật tên tuổi lẫy lừng ấy đã tới... Việt Nam giảng dạy và nghiên cứu trong suốt những năm tháng bom đạn ác liệt nhất (năm 1967). Ông không mảy may phiền hà khi những buổi học bị ngắt quãng hàng chục lần vì máy bay, không ngại về các vùng quê xa xôi sơ tán. Thậm chí trước lúc sang Việt Nam, Grothendieck đã giành toàn bộ va-li của mình để mang sách vở sang tặng các nhà toán học nước bạn, do đó chỉ có một bộ quần áo duy nhất mặc trên người.
Năm 42 tuổi, Grothendieck lui về sống ẩn dật tại vùng núi Pyrénées nước Pháp, hạn chế tối đa giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên hàng ngàn trang bản thảo vẫn được ông đều đặn gửi ra cho đồng nghiệp và được lưu truyền trong giới toán học suốt mấy chục năm qua.
3. Oliver Heaviside (1850 - 1925): Nhà phát minh lập dị và điên loạn
Năm 30 tuổi, kỹ sư cơ khí kiêm nhà toán học người Anh Oliver Heaviside đã đưa ra một phát minh vô cùng quan trọng: biến các phương trình vi phân về dạng số học giản đơn. Không thể diễn tả phát minh này đã ảnh hưởng sâu sắc tới việc nghiên cứu bộ môn vi phân - tích phân như thế nào.
Đáng buồn thay đến những năm cuối cùng của cuộc đời, Heaviside vốn dĩ đã sống lập dị lại càng tỏ ra điên loạn hơn. Ông sơn móng tay bằng màu hồng lòe loẹt - hành động quá sức điên rồ ở những năm 1920, tống tháo tất cả mọi đồ đạc trong nhà ra ngoài đường, thay thế bằng những khối đá granite đủ kích thước và hình thù kỳ dị.
4. Walter Petryshyn: Mưu sát vợ vì... hoang tưởng
Năm 1996, cuốn sách về chức năng của hồi quy và tương quan phi tuyến vừa xuất bản thì nhà toán học người Mỹ gốc Ukraina Walter Petryshyn bỗng phát hiện trong đó tồn tại một sai lầm chết người. Áp lực lo sợ bị cộng đồng nghiên cứu dè bỉu nặng nề đã khiến ông hóa điên - theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sự quẫn trí và hoang tưởng đã đưa đẩy ông đến hành vi mưu sát vợ năm 1997.
5. Evariste Galois (1811 - 1832): Bỏ mạng trong một cuộc đấu súng
Có một thực tế đã trở thành chân lý: đã là thiên tài toán học thì không bao giờ xuất sắc trong đấu súng tay đôi. Nhưng dường như chưa ai từng nói điều này cho Evariste Galois - thần đồng toán học người Pháp thế kỷ 19, người đã đóng góp vào ngành số học của nhân loại bằng một lý thuyết nổi tiếng mang chính tên ông (lý thuyết trường Galois).
Tuy nhiên Galois đã không may mắn sống tới lúc tên tuổi được vinh danh. Chàng trai trẻ bỏ mạng trong một cuộc đấu súng khi vừa tròn 20 tuổi. Điều bất thường ở thiên tài này ở chỗ: Ông đã dàn dựng trận đấu y hệt một cuộc phục kích bắt bớ của cảnh sát, với hy vọng cái chết của mình sẽ châm ngòi cho cuộc cách mạng dân chủ sau này.

Henry Ford người cha của nền kỹ nghệ xe hơi
Vào khoảng năm 1896, Henry Ford tới dự một phiên họp với các nhân viên của Công Ty Edison tại New York. Trong bữa tiệc, Henry Ford được Alex Dow, giám đốc trung tâm điện lực Detroit, dẫn tới gặp nhà đại bác học Thomas Edison và được giới thiệu là người vừa chế tạo xong một chiếc xe hơi chạy bằng dầu lửa. Công trình sáng tạo này của Ford đã khiến Edison chú ý. Nhà bác học liền bảo Ford phác họa chiếc xe. Henry Ford liền dùng tờ thực đơn, lật mặt sau và vẽ nguệch ngoạc những hình vẽ. Khi biết rõ các thành phần của chiếc xe có động cơ, Edison đã phải kêu lên: "Anh đi đúng đường đấy, một chiếc xe tự động chở lấy nhiên liệu, một phương thức hay, hãy tiếp tục đi!".
Khi tan tiệc, Henry Ford cảm thấy quá phấn khởi. Nhờ lời khuyến khích thích đáng của nhà đại bác học Edison, Henry Ford đã theo đuổi ráo riết việc cải tiến các máy móc của xe hơi để rồi 7 năm sau, thành lập nên Công Ty Ford Motor.
Henry Ford không phải là người đầu tiên phát minh ra xe hơi nhưng ông là người đầu tiên tìm ra được phương pháp sản xuất hàng loạt (mass-production system) và một cách đáp ứng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vào thời bấy giờ, người ta coi xe hơi là một thứ xa xỉ và các nhà sản xuất xe hơi chỉ nghĩ cách chế tạo thứ "đồ chơi" đắt tiền đó cho những kẻ giàu có. Henry Ford lại có ý nghĩ khác hẳn. Ông quan tâm tới số đông quần chúng nên đã nhận định rằng chiếc xe hơi phải có máy móc đơn giản và bền bỉ, nhẹ nhàng và dễ tháo ráp, với giá bán chiếc xe thích hợp với túi tiền của giới tiêu thụ trung lưu. Những nguyên tắc này đã được Henry Ford áp dụng cho loại xe hơi "kiểu T" lừng danh.
Henry Ford đã cho thiết lập các dãy lắp xe khiến cho thời gian cần thiết để ráp một chiếc xe được giảm từ 14 giờ xuống còn 93 phút. Tại nhiều nơi trên nước Mỹ, Henry Ford đã cho thiết lập các cơ xưởng sản xuất và từ năm 1917 tới năm 1927, gần một nửa tổng số xe hơi chế tạo tại Hoa Kỳ mang nhãn hiệu Ford. Riêng với loại xe hơi "kiểu T", nhịp độ sản xuất là 10 chiếc trong 16 phút và trong 19 năm liền, 15 triệu chiếc xe đã được chế tạo. Ngoài ra, giá tiền mua xe hơi cũng được giảm đi rất nhiều, từ 850 mỹ kim vào năm 1908 xuống 550 mỹ kim năm 1913, 440 mỹ kim năm 1915 và 290 mỹ kim vào năm 1924.
Trong tất cả các công cuộc kinh doanh kỹ nghệ tại Hoa Kỳ, xe hơi "kiểu T" đã là một thành công lớn lao và tốt đẹp nhất. James Couzens, viên giám đốc thương mại đầu tiên của Công Ty Ford Motor muốn nhượng cổ phần của mình cho người chị là bà Rosetta Hauss với giá 200 mỹ kim. Bà Rosetta cũng không ưa gì những cổ phần đó nhưng rồi cũng bằng lòng bỏ ra 100 mỹ kim để mua lại, có ngờ đâu rằng 10 năm sau, tiền lời của cổ phần là 95,000 mỹ kim và vào năm 1919, khi Ford muốn mua lại các cổ phần nhỏ, bà Rosetta đã bán lại với giá 260,000 mỹ kim mà trước kia nó chỉ đáng giá 100 mỹ kim. Còn nhiều người khác, chẳng hạn như hai luật sư Horace Rackham và John Anderson, khi trước đã bỏ ra 10,000 mỹ kim, sau đã thu về được 25 triệu! Chính Alex Dow cũng phải hối tiếc là đã từ chối cổ phần của Công Ty Ford Motor vì không ai ngờ tới sự huyền diệu của Kỹ Thuật.
Bài gởiGởi: Chủ nhật 30/7/2006 1:30 pm Tiêu đề: Henry Ford người cha của nền kỹ nghệ xe hơi Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết nầy
Henry Ford người cha của nền kỹ nghệ xe hơi
bbcode
Vào khoảng năm 1896, Henry Ford tới dự một phiên họp với các nhân viên của Công Ty Edison tại New York. Trong bữa tiệc, Henry Ford được Alex Dow, giám đốc trung tâm điện lực Detroit, dẫn tới gặp nhà đại bác học Thomas Edison và được giới thiệu là người vừa chế tạo xong một chiếc xe hơi chạy bằng dầu lửa. Công trình sáng tạo này của Ford đã khiến Edison chú ý. Nhà bác học liền bảo Ford phác họa chiếc xe. Henry Ford liền dùng tờ thực đơn, lật mặt sau và vẽ nguệch ngoạc những hình vẽ. Khi biết rõ các thành phần của chiếc xe có động cơ, Edison đã phải kêu lên: "Anh đi đúng đường đấy, một chiếc xe tự động chở lấy nhiên liệu, một phương thức hay, hãy tiếp tục đi!".
Khi tan tiệc, Henry Ford cảm thấy quá phấn khởi. Nhờ lời khuyến khích thích đáng của nhà đại bác học Edison, Henry Ford đã theo đuổi ráo riết việc cải tiến các máy móc của xe hơi để rồi 7 năm sau, thành lập nên Công Ty Ford Motor.
Henry Ford không phải là người đầu tiên phát minh ra xe hơi nhưng ông là người đầu tiên tìm ra được phương pháp sản xuất hàng loạt (mass-production system) và một cách đáp ứng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vào thời bấy giờ, người ta coi xe hơi là một thứ xa xỉ và các nhà sản xuất xe hơi chỉ nghĩ cách chế tạo thứ "đồ chơi" đắt tiền đó cho những kẻ giàu có. Henry Ford lại có ý nghĩ khác hẳn. Ông quan tâm tới số đông quần chúng nên đã nhận định rằng chiếc xe hơi phải có máy móc đơn giản và bền bỉ, nhẹ nhàng và dễ tháo ráp, với giá bán chiếc xe thích hợp với túi tiền của giới tiêu thụ trung lưu. Những nguyên tắc này đã được Henry Ford áp dụng cho loại xe hơi "kiểu T" lừng danh.
Henry Ford đã cho thiết lập các dãy lắp xe khiến cho thời gian cần thiết để ráp một chiếc xe được giảm từ 14 giờ xuống còn 93 phút. Tại nhiều nơi trên nước Mỹ, Henry Ford đã cho thiết lập các cơ xưởng sản xuất và từ năm 1917 tới năm 1927, gần một nửa tổng số xe hơi chế tạo tại Hoa Kỳ mang nhãn hiệu Ford. Riêng với loại xe hơi "kiểu T", nhịp độ sản xuất là 10 chiếc trong 16 phút và trong 19 năm liền, 15 triệu chiếc xe đã được chế tạo. Ngoài ra, giá tiền mua xe hơi cũng được giảm đi rất nhiều, từ 850 mỹ kim vào năm 1908 xuống 550 mỹ kim năm 1913, 440 mỹ kim năm 1915 và 290 mỹ kim vào năm 1924.
Trong tất cả các công cuộc kinh doanh kỹ nghệ tại Hoa Kỳ, xe hơi "kiểu T" đã là một thành công lớn lao và tốt đẹp nhất. James Couzens, viên giám đốc thương mại đầu tiên của Công Ty Ford Motor muốn nhượng cổ phần của mình cho người chị là bà Rosetta Hauss với giá 200 mỹ kim. Bà Rosetta cũng không ưa gì những cổ phần đó nhưng rồi cũng bằng lòng bỏ ra 100 mỹ kim để mua lại, có ngờ đâu rằng 10 năm sau, tiền lời của cổ phần là 95,000 mỹ kim và vào năm 1919, khi Ford muốn mua lại các cổ phần nhỏ, bà Rosetta đã bán lại với giá 260,000 mỹ kim mà trước kia nó chỉ đáng giá 100 mỹ kim. Còn nhiều người khác, chẳng hạn như hai luật sư Horace Rackham và John Anderson, khi trước đã bỏ ra 10,000 mỹ kim, sau đã thu về được 25 triệu! Chính Alex Dow cũng phải hối tiếc là đã từ chối cổ phần của Công Ty Ford Motor vì không ai ngờ tới sự huyền diệu của Kỹ Thuật.
Thời kỳ thanh niên của Henry Ford.
Henry Ford ra đời vào năm 1863 tại thị xã Dearborn, thuộc tiểu bang Michigan, có cha là một nông dân gốc Ái Nhĩ Lan và mẹ gốc xứ Hòa Lan. Henry Ford là một người vừa can đảm, vừa ngông cuồng, một nhân vật kỹ nghệ lừng danh vừa cương quyết, vừa có tính tình hay thay đổi kỳ cục, đã bị ý tưởng về xe hơi ám ảnh khi còn là một cậu bé ngồi bên cạnh cha trên một chiếc xe ngựa chở đầy cỏ khô, chạy trên đường lộ của Dearborn, Michigan. Cậu bé Henry 13 tuổi này đã hết sức ngạc nhiên khi trông thấy một chiếc xe hơi chạy ngược chiều mà không cần tới lừa ngựa kéo. Phản ứng đầu tiên của cậu là nhẩy xuống đất, chạy lại quan sát kỹ lưỡng gầm xe rồi hỏi chuyện bác tài xế.
Từ ngày hôm đó, Henry không còn muốn nghe ai nói gì về canh nông nữa. Cậu xin cha cho đi học nghề thợ máy. Henry đã sửa chữa rất nhiều máy cầy, máy gặt rồi tìm cách khai thác một xưởng cưa nhỏ.
Năm 1891, Henry Ford nhận làm nhân viên cơ khí tại Trung Tâm Điện Lực Detroit của Công Ty Edison Illuminating. Ông đã cắt nghĩa cho vợ hiểu rằng sở dĩ ông bằng lòng với số lương ít ỏi của Công Ty Edison vì nhờ vậy, ông có thể tìm hiểu về điện học là thứ rất cần thiết cho chiếc xe hơi mà ông đã bỏ ra nhiều năm trường nghiên cứu. Sự việc ông chồng nhận lãnh một nghề nghiệp mới khiến cho bà Clara phải rời khỏi ngôi nhà vừa mới xây cất tại Dearborn, phải vất vả di chuyển nhà cửa nhưng những điều này không làm cho bà Clara phàn nàn. Bà đã được chồng cắt nghĩa nhiều lần về một thứ xe không dùng ngựa kéo và bà cũng tin tưởng vào sự thành công sẽ tới. Còn về Henry Ford, ông quá ham mê về động cơ nổ nên thường quên cả ngày lãnh lương tại Công Ty Edison.
Vào thập niên 1880, các nhà cơ khí bắt đầu áp dụng loại động cơ nhỏ vào một thứ xe chở người. Ngày 29-1-1886, Karl Benz đã nhận văn bằng sáng chế về một loại xe dùng nhiên liệu thô rồi năm sau, đã biểu diễn loại xe này trên đường phố thuộc tỉnh Mannhelm, nước Đức. Tại Hoa Kỳ có Charles và Frank Durya chế tạo xong vào năm 1893 tại Springfield, Massachusetts, chiếc xe hơi dùng khí đốt đầu tiên. Trong khi đó, vào đêm Giáng Sinh 1893 khi cậu con trai Edsel của ông mới được 7 tuổi thì Henry Ford cũng hoàn thành một chiếc máy nổ một xi-lanh. Henry đã đặt máy trong bếp và bà Clara đã giúp chồng trong việc cho nổ máy, điều chỉnh máy… Ít lâu sau, Ford chế tạo tiếp một động cơ 2 xi-lanh. Căn nhà kho để chứa than trở thành cơ xưởng của ông. Ngày 4 tháng 6 năm 1896, Henry Ford làm xong chiếc xe hơi đầu tiên và liền cho chạy thử trên đại lộ Grand River và khi đến đường Washington, xe mới bị tắt máy.
Vào thời bấy giờ, các nhà sản xuất xe hơi thường quảng cáo xe trong các cuộc chạy đua vì thế muốn cho dân chúng chú ý đến mình, Henry Ford chế tạo chiếc xe đua 26 mã lực vào năm 1901 để tranh tài với chiếc xe của Alexander Winton, nhà sản xuất xe hơi hàng đầu thuộc tiểu bang Ohio. Trên quãng đường dài 10 dậm trong cuộc đua xe tổ chức tại Gross Point, Michigan, chiếc xe hơi của Henry Ford đã thắng giải. Sau lần thành công này, Henry Ford và nhóm 12 người đầu tư liền bắt tay vào việc thành lập Công Ty Ford Motor. Số vốn bỏ ra là 100,000 mỹ kim với khoảng 28,000 mỹ kim tiền mặt. Năm 1903, xưởng xe hơi Ford đã có 125 người thợ, làm ra được 1,700 xe hơi thuộc 3 kiểu mẫu với giá bán là 850 mỹ kim. Đối với thời đó, xe hơi Ford nặng gần 600 kilô nhưng lại là loại nhẹ nhàng nhất và giá rẻ nhất nên dễ bán ra. Nhờ phát đạt, chỉ trong 4 năm trường số vốn của Công Ty Ford tăng lên được 1,000 phần trăm.
Tại Công Ty Ford Motor, Henry Ford đã sở hữu phần lớn các cổ phần. Người ngoài có phần hùn lớn thứ hai là James Couzens, trước kia là thư ký của Alexander Malcomson và nay là Tổng giám đốc (General Manager) của Công Ty rồi sau lên chức Phó Chủ Tịch kiêm Thủ Quỹ, là người đứng thứ hai điều khiển công ty trong các năm sản xuất xe hơi "kiểu T".
Khi điều khiển công ty xe hơi Ford, Henry Ford rất quan tâm tới giá thành của chiếc xe và không muốn làm ra các kiểu xe đắt giá. Ông đã dùng ảnh hưởng của mình để giảm bớt số lượng xe sản xuất vào năm 1906 nhờ đó Công Ty Ford đã được cứu vãn khi tình hình kinh tế suy sụp vào năm 1907. Henry Ford còn quyết định làm ra một kiểu xe hơi mới, chắc chắn và rẻ tiền.
Vào mùa đông năm 1906, Henry Ford đã ngăn riêng một phần cơ xưởng 12 x 15 feet trong nhà máy trên đại lộ Piquette thuộc thành phố Detroit để nghiên cứu về xe hơi kiểu T. Ông đã bỏ ra hai năm trường khảo sát các vật liệu và cách chế tạo loại xe hơi mới. Trong cuộc đua xe tổ chức tại Florida, Henry Ford đã xem xét một xe hơi bị hư hỏng và được chế tạo tại Pháp và nhận thấy rằng nhiều thành phần của chiếc xe này được làm bằng một thứ thép khác thường. Nhóm kỹ sư của xưởng xe Ford biết chắc rằng loại thép mà người Pháp đã dùng là một hợp chất có Vanadium, vừa nhẹ hơn, vừa chịu đựng được sức căng tới 170,000 lbs trong khi loại thép của Hoa Kỳ chỉ chịu tối đa 60,000 lbs. Ông Ford liền mời một nhà luyện kim chế tạo ra loại thép có Vanadium để dùng cho loại xe hơi kiểu T. Kết quả là trên thế giới vào thời kỳ đó, hợp chất thép có Vanadium chỉ được dùng cho xe hơi loại đắt tiền của Pháp và xe hơi Ford kiểu T. Đây là thứ xe hơi có thể bị hư hỏng mà không thể bị bể gẫy.
Từ ngày 01 tháng 10 năm 1908, với số tiền 850 mỹ kim, khách hàng có thể mua được một chiếc xe hơi kiểu T nhẹ, vào khoảng 1,200 lbs, khá mạnh với máy 4 xi-lanh và 20 mã lực, có 2 số, rất dễ lái và một số đặc tính khác như đơn giản, vững chắc. Sau năm đầu tiên sản xuất, 10 ngàn chiếc xe đã được bán ra và đây là một kỷ lục mới. Năm 1909, nhà doanh nghiệp Robert Guggenheim đã bảo trợ một cuộc đua xe hơi từ New York tới Seattle, và tới đích chỉ có 2 chiếc xe hơi kiểu T, khiến cho ông Guggenheim đã phải nói rằng: "tôi tin rằng ông Ford biết rõ lời giải đáp về loại xe hơi phổ thông".
Vào các năm đầu, xe hơi kiểu T được chế tạo tại xưởng máy trên đại lộ Piquette theo cùng một phương pháp như các loại xe hơi khác. Nhưng nhu cầu về xe Ford đã gia tăng, khiến cho ông Henry Ford phải nghĩ đến việc lập ra một nhà máy mới, với một hệ thống sản xuất mới.
Trong nhiều năm làm Chủ Tịch công ty, ông Henry Ford đã nắm giữ một số lượng lớn tiền mặt nhờ đó ông có thể chủ trương một chính sách mới mà không bị các áp lực khác và vì thế, nhà máy sản xuất xe hơi mới tại Highland Park được vẽ kiểu do kiến trúc sư kỹ nghệ hàng đầu là ông Albert Kahn và được khánh thành vào năm 1910. Đây là một cơ xưởng rộng 62 mẫu (acres), với tầm vóc rộng lớn nhất khiến cho ông John D. Rockefeller, chủ tịch của công ty lọc dầu Standard Oil phải nói rằng cơ xưởng xe hơi Highland Park là một huyền diệu kỹ nghệ của thời đại (the industrial miracle of the age).
Trong các năm đầu, cách lắp ráp xe trong cơ xưởng này được tổ chức từ trên xuống dần, bắt đầu từ tầng thứ tư, các thảm chuyền đưa nhiều bộ phận cho công nhân lắp ráp, xuống tầng lầu ba, sườn của xe hơi được gắn thêm bánh xe, thùng xe và chiếc xe hoàn thành tại tầng dưới chót, xếp hàng trước mặt văn phòng. Trong ba năm đầu, số lượng sản xuất xe đã tăng lên 100 phần trăm, từ 19,000 chiếc vào năm 1910 tới 34,000 chiếc vào năm 1911 rồi đạt tới con số 78,440 chiếc vào năm 1912.
Năm 1909, Henry Ford tuyên bố rằng: "Tôi sẽ làm cho xe hơi có tính dân chủ, mọi người đều có khả năng mua nổi một chiếc và hầu như mỗi người sẽ có một xe hơi vậy". 41.gif 41.gif 41.gif Giá bán khởi đầu của xe hơi kiểu T là 850 mỹ kim, đã hạ xuống còn 575 mỹ kim vào năm 1912 và số tiền này thấp hơn lợi tức trung bình hàng năm của người dân thường tại Hoa Kỳ. Henry Ford đã hy sinh một phần lợi nhuận để làm gia tăng số lượng xe bán ra khiến cho vào năm 1913, số lượng xe hơi Ford tiêu thụ là 248,000 chiếc. Nhờ chính sách kinh tế mới có hệ thống và chiến thuật, lợi tức của Công Ty Ford tăng từ 3 triệu mỹ kim vào năm 1909 lên tới 25 triệu mỹ kim vào năm 1914. Năm 1908, xe hơi Ford chỉ chiếm 9.4 phần trăm thị trường, nhưng đã vượt lên 48 phần trăm vào năm 1914. Xe hơi kiểu T của Công Ty Ford đã chế ngự thị trường xe hơi trên Thế Giới.
Vào khoảng năm 1896, Henry Ford tới dự một phiên họp với các nhân viên của Công Ty Edison tại New York. Trong bữa tiệc, Henry Ford được Alex Dow, giám đốc trung tâm điện lực Detroit, dẫn tới gặp nhà đại bác học Thomas Edison và được giới thiệu là người vừa chế tạo xong một chiếc xe hơi chạy bằng dầu lửa. Công trình sáng tạo này của Ford đã khiến Edison chú ý. Nhà bác học liền bảo Ford phác họa chiếc xe. Henry Ford liền dùng tờ thực đơn, lật mặt sau và vẽ nguệch ngoạc những hình vẽ. Khi biết rõ các thành phần của chiếc xe có động cơ, Edison đã phải kêu lên: "Anh đi đúng đường đấy, một chiếc xe tự động chở lấy nhiên liệu, một phương thức hay, hãy tiếp tục đi!".
Khi tan tiệc, Henry Ford cảm thấy quá phấn khởi. Nhờ lời khuyến khích thích đáng của nhà đại bác học Edison, Henry Ford đã theo đuổi ráo riết việc cải tiến các máy móc của xe hơi để rồi 7 năm sau, thành lập nên Công Ty Ford Motor.
Henry Ford không phải là người đầu tiên phát minh ra xe hơi nhưng ông là người đầu tiên tìm ra được phương pháp sản xuất hàng loạt (mass-production system) và một cách đáp ứng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vào thời bấy giờ, người ta coi xe hơi là một thứ xa xỉ và các nhà sản xuất xe hơi chỉ nghĩ cách chế tạo thứ "đồ chơi" đắt tiền đó cho những kẻ giàu có. Henry Ford lại có ý nghĩ khác hẳn. Ông quan tâm tới số đông quần chúng nên đã nhận định rằng chiếc xe hơi phải có máy móc đơn giản và bền bỉ, nhẹ nhàng và dễ tháo ráp, với giá bán chiếc xe thích hợp với túi tiền của giới tiêu thụ trung lưu. Những nguyên tắc này đã được Henry Ford áp dụng cho loại xe hơi "kiểu T" lừng danh.
Henry Ford đã cho thiết lập các dãy lắp xe khiến cho thời gian cần thiết để ráp một chiếc xe được giảm từ 14 giờ xuống còn 93 phút. Tại nhiều nơi trên nước Mỹ, Henry Ford đã cho thiết lập các cơ xưởng sản xuất và từ năm 1917 tới năm 1927, gần một nửa tổng số xe hơi chế tạo tại Hoa Kỳ mang nhãn hiệu Ford. Riêng với loại xe hơi "kiểu T", nhịp độ sản xuất là 10 chiếc trong 16 phút và trong 19 năm liền, 15 triệu chiếc xe đã được chế tạo. Ngoài ra, giá tiền mua xe hơi cũng được giảm đi rất nhiều, từ 850 mỹ kim vào năm 1908 xuống 550 mỹ kim năm 1913, 440 mỹ kim năm 1915 và 290 mỹ kim vào năm 1924.
Trong tất cả các công cuộc kinh doanh kỹ nghệ tại Hoa Kỳ, xe hơi "kiểu T" đã là một thành công lớn lao và tốt đẹp nhất. James Couzens, viên giám đốc thương mại đầu tiên của Công Ty Ford Motor muốn nhượng cổ phần của mình cho người chị là bà Rosetta Hauss với giá 200 mỹ kim. Bà Rosetta cũng không ưa gì những cổ phần đó nhưng rồi cũng bằng lòng bỏ ra 100 mỹ kim để mua lại, có ngờ đâu rằng 10 năm sau, tiền lời của cổ phần là 95,000 mỹ kim và vào năm 1919, khi Ford muốn mua lại các cổ phần nhỏ, bà Rosetta đã bán lại với giá 260,000 mỹ kim mà trước kia nó chỉ đáng giá 100 mỹ kim. Còn nhiều người khác, chẳng hạn như hai luật sư Horace Rackham và John Anderson, khi trước đã bỏ ra 10,000 mỹ kim, sau đã thu về được 25 triệu! Chính Alex Dow cũng phải hối tiếc là đã từ chối cổ phần của Công Ty Ford Motor vì không ai ngờ tới sự huyền diệu của Kỹ Thuật.
Bài gởiGởi: Chủ nhật 30/7/2006 1:30 pm Tiêu đề: Henry Ford người cha của nền kỹ nghệ xe hơi Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết nầy
Henry Ford người cha của nền kỹ nghệ xe hơi
bbcode
Vào khoảng năm 1896, Henry Ford tới dự một phiên họp với các nhân viên của Công Ty Edison tại New York. Trong bữa tiệc, Henry Ford được Alex Dow, giám đốc trung tâm điện lực Detroit, dẫn tới gặp nhà đại bác học Thomas Edison và được giới thiệu là người vừa chế tạo xong một chiếc xe hơi chạy bằng dầu lửa. Công trình sáng tạo này của Ford đã khiến Edison chú ý. Nhà bác học liền bảo Ford phác họa chiếc xe. Henry Ford liền dùng tờ thực đơn, lật mặt sau và vẽ nguệch ngoạc những hình vẽ. Khi biết rõ các thành phần của chiếc xe có động cơ, Edison đã phải kêu lên: "Anh đi đúng đường đấy, một chiếc xe tự động chở lấy nhiên liệu, một phương thức hay, hãy tiếp tục đi!".
Khi tan tiệc, Henry Ford cảm thấy quá phấn khởi. Nhờ lời khuyến khích thích đáng của nhà đại bác học Edison, Henry Ford đã theo đuổi ráo riết việc cải tiến các máy móc của xe hơi để rồi 7 năm sau, thành lập nên Công Ty Ford Motor.
Henry Ford không phải là người đầu tiên phát minh ra xe hơi nhưng ông là người đầu tiên tìm ra được phương pháp sản xuất hàng loạt (mass-production system) và một cách đáp ứng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vào thời bấy giờ, người ta coi xe hơi là một thứ xa xỉ và các nhà sản xuất xe hơi chỉ nghĩ cách chế tạo thứ "đồ chơi" đắt tiền đó cho những kẻ giàu có. Henry Ford lại có ý nghĩ khác hẳn. Ông quan tâm tới số đông quần chúng nên đã nhận định rằng chiếc xe hơi phải có máy móc đơn giản và bền bỉ, nhẹ nhàng và dễ tháo ráp, với giá bán chiếc xe thích hợp với túi tiền của giới tiêu thụ trung lưu. Những nguyên tắc này đã được Henry Ford áp dụng cho loại xe hơi "kiểu T" lừng danh.
Henry Ford đã cho thiết lập các dãy lắp xe khiến cho thời gian cần thiết để ráp một chiếc xe được giảm từ 14 giờ xuống còn 93 phút. Tại nhiều nơi trên nước Mỹ, Henry Ford đã cho thiết lập các cơ xưởng sản xuất và từ năm 1917 tới năm 1927, gần một nửa tổng số xe hơi chế tạo tại Hoa Kỳ mang nhãn hiệu Ford. Riêng với loại xe hơi "kiểu T", nhịp độ sản xuất là 10 chiếc trong 16 phút và trong 19 năm liền, 15 triệu chiếc xe đã được chế tạo. Ngoài ra, giá tiền mua xe hơi cũng được giảm đi rất nhiều, từ 850 mỹ kim vào năm 1908 xuống 550 mỹ kim năm 1913, 440 mỹ kim năm 1915 và 290 mỹ kim vào năm 1924.
Trong tất cả các công cuộc kinh doanh kỹ nghệ tại Hoa Kỳ, xe hơi "kiểu T" đã là một thành công lớn lao và tốt đẹp nhất. James Couzens, viên giám đốc thương mại đầu tiên của Công Ty Ford Motor muốn nhượng cổ phần của mình cho người chị là bà Rosetta Hauss với giá 200 mỹ kim. Bà Rosetta cũng không ưa gì những cổ phần đó nhưng rồi cũng bằng lòng bỏ ra 100 mỹ kim để mua lại, có ngờ đâu rằng 10 năm sau, tiền lời của cổ phần là 95,000 mỹ kim và vào năm 1919, khi Ford muốn mua lại các cổ phần nhỏ, bà Rosetta đã bán lại với giá 260,000 mỹ kim mà trước kia nó chỉ đáng giá 100 mỹ kim. Còn nhiều người khác, chẳng hạn như hai luật sư Horace Rackham và John Anderson, khi trước đã bỏ ra 10,000 mỹ kim, sau đã thu về được 25 triệu! Chính Alex Dow cũng phải hối tiếc là đã từ chối cổ phần của Công Ty Ford Motor vì không ai ngờ tới sự huyền diệu của Kỹ Thuật.
Thời kỳ thanh niên của Henry Ford.
Henry Ford ra đời vào năm 1863 tại thị xã Dearborn, thuộc tiểu bang Michigan, có cha là một nông dân gốc Ái Nhĩ Lan và mẹ gốc xứ Hòa Lan. Henry Ford là một người vừa can đảm, vừa ngông cuồng, một nhân vật kỹ nghệ lừng danh vừa cương quyết, vừa có tính tình hay thay đổi kỳ cục, đã bị ý tưởng về xe hơi ám ảnh khi còn là một cậu bé ngồi bên cạnh cha trên một chiếc xe ngựa chở đầy cỏ khô, chạy trên đường lộ của Dearborn, Michigan. Cậu bé Henry 13 tuổi này đã hết sức ngạc nhiên khi trông thấy một chiếc xe hơi chạy ngược chiều mà không cần tới lừa ngựa kéo. Phản ứng đầu tiên của cậu là nhẩy xuống đất, chạy lại quan sát kỹ lưỡng gầm xe rồi hỏi chuyện bác tài xế.
Từ ngày hôm đó, Henry không còn muốn nghe ai nói gì về canh nông nữa. Cậu xin cha cho đi học nghề thợ máy. Henry đã sửa chữa rất nhiều máy cầy, máy gặt rồi tìm cách khai thác một xưởng cưa nhỏ.
Năm 1891, Henry Ford nhận làm nhân viên cơ khí tại Trung Tâm Điện Lực Detroit của Công Ty Edison Illuminating. Ông đã cắt nghĩa cho vợ hiểu rằng sở dĩ ông bằng lòng với số lương ít ỏi của Công Ty Edison vì nhờ vậy, ông có thể tìm hiểu về điện học là thứ rất cần thiết cho chiếc xe hơi mà ông đã bỏ ra nhiều năm trường nghiên cứu. Sự việc ông chồng nhận lãnh một nghề nghiệp mới khiến cho bà Clara phải rời khỏi ngôi nhà vừa mới xây cất tại Dearborn, phải vất vả di chuyển nhà cửa nhưng những điều này không làm cho bà Clara phàn nàn. Bà đã được chồng cắt nghĩa nhiều lần về một thứ xe không dùng ngựa kéo và bà cũng tin tưởng vào sự thành công sẽ tới. Còn về Henry Ford, ông quá ham mê về động cơ nổ nên thường quên cả ngày lãnh lương tại Công Ty Edison.
Vào thập niên 1880, các nhà cơ khí bắt đầu áp dụng loại động cơ nhỏ vào một thứ xe chở người. Ngày 29-1-1886, Karl Benz đã nhận văn bằng sáng chế về một loại xe dùng nhiên liệu thô rồi năm sau, đã biểu diễn loại xe này trên đường phố thuộc tỉnh Mannhelm, nước Đức. Tại Hoa Kỳ có Charles và Frank Durya chế tạo xong vào năm 1893 tại Springfield, Massachusetts, chiếc xe hơi dùng khí đốt đầu tiên. Trong khi đó, vào đêm Giáng Sinh 1893 khi cậu con trai Edsel của ông mới được 7 tuổi thì Henry Ford cũng hoàn thành một chiếc máy nổ một xi-lanh. Henry đã đặt máy trong bếp và bà Clara đã giúp chồng trong việc cho nổ máy, điều chỉnh máy… Ít lâu sau, Ford chế tạo tiếp một động cơ 2 xi-lanh. Căn nhà kho để chứa than trở thành cơ xưởng của ông. Ngày 4 tháng 6 năm 1896, Henry Ford làm xong chiếc xe hơi đầu tiên và liền cho chạy thử trên đại lộ Grand River và khi đến đường Washington, xe mới bị tắt máy.
Vào thời bấy giờ, các nhà sản xuất xe hơi thường quảng cáo xe trong các cuộc chạy đua vì thế muốn cho dân chúng chú ý đến mình, Henry Ford chế tạo chiếc xe đua 26 mã lực vào năm 1901 để tranh tài với chiếc xe của Alexander Winton, nhà sản xuất xe hơi hàng đầu thuộc tiểu bang Ohio. Trên quãng đường dài 10 dậm trong cuộc đua xe tổ chức tại Gross Point, Michigan, chiếc xe hơi của Henry Ford đã thắng giải. Sau lần thành công này, Henry Ford và nhóm 12 người đầu tư liền bắt tay vào việc thành lập Công Ty Ford Motor. Số vốn bỏ ra là 100,000 mỹ kim với khoảng 28,000 mỹ kim tiền mặt. Năm 1903, xưởng xe hơi Ford đã có 125 người thợ, làm ra được 1,700 xe hơi thuộc 3 kiểu mẫu với giá bán là 850 mỹ kim. Đối với thời đó, xe hơi Ford nặng gần 600 kilô nhưng lại là loại nhẹ nhàng nhất và giá rẻ nhất nên dễ bán ra. Nhờ phát đạt, chỉ trong 4 năm trường số vốn của Công Ty Ford tăng lên được 1,000 phần trăm.
Tại Công Ty Ford Motor, Henry Ford đã sở hữu phần lớn các cổ phần. Người ngoài có phần hùn lớn thứ hai là James Couzens, trước kia là thư ký của Alexander Malcomson và nay là Tổng giám đốc (General Manager) của Công Ty rồi sau lên chức Phó Chủ Tịch kiêm Thủ Quỹ, là người đứng thứ hai điều khiển công ty trong các năm sản xuất xe hơi "kiểu T".
Khi điều khiển công ty xe hơi Ford, Henry Ford rất quan tâm tới giá thành của chiếc xe và không muốn làm ra các kiểu xe đắt giá. Ông đã dùng ảnh hưởng của mình để giảm bớt số lượng xe sản xuất vào năm 1906 nhờ đó Công Ty Ford đã được cứu vãn khi tình hình kinh tế suy sụp vào năm 1907. Henry Ford còn quyết định làm ra một kiểu xe hơi mới, chắc chắn và rẻ tiền.
Vào mùa đông năm 1906, Henry Ford đã ngăn riêng một phần cơ xưởng 12 x 15 feet trong nhà máy trên đại lộ Piquette thuộc thành phố Detroit để nghiên cứu về xe hơi kiểu T. Ông đã bỏ ra hai năm trường khảo sát các vật liệu và cách chế tạo loại xe hơi mới. Trong cuộc đua xe tổ chức tại Florida, Henry Ford đã xem xét một xe hơi bị hư hỏng và được chế tạo tại Pháp và nhận thấy rằng nhiều thành phần của chiếc xe này được làm bằng một thứ thép khác thường. Nhóm kỹ sư của xưởng xe Ford biết chắc rằng loại thép mà người Pháp đã dùng là một hợp chất có Vanadium, vừa nhẹ hơn, vừa chịu đựng được sức căng tới 170,000 lbs trong khi loại thép của Hoa Kỳ chỉ chịu tối đa 60,000 lbs. Ông Ford liền mời một nhà luyện kim chế tạo ra loại thép có Vanadium để dùng cho loại xe hơi kiểu T. Kết quả là trên thế giới vào thời kỳ đó, hợp chất thép có Vanadium chỉ được dùng cho xe hơi loại đắt tiền của Pháp và xe hơi Ford kiểu T. Đây là thứ xe hơi có thể bị hư hỏng mà không thể bị bể gẫy.
Từ ngày 01 tháng 10 năm 1908, với số tiền 850 mỹ kim, khách hàng có thể mua được một chiếc xe hơi kiểu T nhẹ, vào khoảng 1,200 lbs, khá mạnh với máy 4 xi-lanh và 20 mã lực, có 2 số, rất dễ lái và một số đặc tính khác như đơn giản, vững chắc. Sau năm đầu tiên sản xuất, 10 ngàn chiếc xe đã được bán ra và đây là một kỷ lục mới. Năm 1909, nhà doanh nghiệp Robert Guggenheim đã bảo trợ một cuộc đua xe hơi từ New York tới Seattle, và tới đích chỉ có 2 chiếc xe hơi kiểu T, khiến cho ông Guggenheim đã phải nói rằng: "tôi tin rằng ông Ford biết rõ lời giải đáp về loại xe hơi phổ thông".
Vào các năm đầu, xe hơi kiểu T được chế tạo tại xưởng máy trên đại lộ Piquette theo cùng một phương pháp như các loại xe hơi khác. Nhưng nhu cầu về xe Ford đã gia tăng, khiến cho ông Henry Ford phải nghĩ đến việc lập ra một nhà máy mới, với một hệ thống sản xuất mới.
Trong nhiều năm làm Chủ Tịch công ty, ông Henry Ford đã nắm giữ một số lượng lớn tiền mặt nhờ đó ông có thể chủ trương một chính sách mới mà không bị các áp lực khác và vì thế, nhà máy sản xuất xe hơi mới tại Highland Park được vẽ kiểu do kiến trúc sư kỹ nghệ hàng đầu là ông Albert Kahn và được khánh thành vào năm 1910. Đây là một cơ xưởng rộng 62 mẫu (acres), với tầm vóc rộng lớn nhất khiến cho ông John D. Rockefeller, chủ tịch của công ty lọc dầu Standard Oil phải nói rằng cơ xưởng xe hơi Highland Park là một huyền diệu kỹ nghệ của thời đại (the industrial miracle of the age).
Trong các năm đầu, cách lắp ráp xe trong cơ xưởng này được tổ chức từ trên xuống dần, bắt đầu từ tầng thứ tư, các thảm chuyền đưa nhiều bộ phận cho công nhân lắp ráp, xuống tầng lầu ba, sườn của xe hơi được gắn thêm bánh xe, thùng xe và chiếc xe hoàn thành tại tầng dưới chót, xếp hàng trước mặt văn phòng. Trong ba năm đầu, số lượng sản xuất xe đã tăng lên 100 phần trăm, từ 19,000 chiếc vào năm 1910 tới 34,000 chiếc vào năm 1911 rồi đạt tới con số 78,440 chiếc vào năm 1912.
Năm 1909, Henry Ford tuyên bố rằng: "Tôi sẽ làm cho xe hơi có tính dân chủ, mọi người đều có khả năng mua nổi một chiếc và hầu như mỗi người sẽ có một xe hơi vậy". 41.gif 41.gif 41.gif Giá bán khởi đầu của xe hơi kiểu T là 850 mỹ kim, đã hạ xuống còn 575 mỹ kim vào năm 1912 và số tiền này thấp hơn lợi tức trung bình hàng năm của người dân thường tại Hoa Kỳ. Henry Ford đã hy sinh một phần lợi nhuận để làm gia tăng số lượng xe bán ra khiến cho vào năm 1913, số lượng xe hơi Ford tiêu thụ là 248,000 chiếc. Nhờ chính sách kinh tế mới có hệ thống và chiến thuật, lợi tức của Công Ty Ford tăng từ 3 triệu mỹ kim vào năm 1909 lên tới 25 triệu mỹ kim vào năm 1914. Năm 1908, xe hơi Ford chỉ chiếm 9.4 phần trăm thị trường, nhưng đã vượt lên 48 phần trăm vào năm 1914. Xe hơi kiểu T của Công Ty Ford đã chế ngự thị trường xe hơi trên Thế Giới.

Wernher Von Braun - Cha đẻ của hỏa tiễn.
Thuở thiếu thời nhà bác học hỏa tiễn Wernher Von Braun
Vào cuối cuộc thế chiến thứ Hai, dân chúng nước Anh đã kinh hoàng, điêu đứng vì một thứ khí giới mới: bom bay. Các quả bom không biết từ đâu đã rơi xuống thành phố London cả ngày lẫn đêm. Cha đẻ của thứ vũ khí này là một nhà bác học trẻ tuổi mà thời bấy giờ giới Khoa Học chưa được biết tiếng: Wernher Von Braun (1912 - 1977)
Wernher Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz, tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước Đức, phần đất này ngày nay đã thuộc về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha cậu là một điền chủ nghiêm nghị, đã từng tham gia vào việc chính trị của nước Đức thời Cộng Hòa Weimar, còn mẹ cậu, bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê thiên văn học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành tinh cùng các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì vậy cậu Wernher đã ước mơ một ngày kia cậu có thể đặt chân lên các thiên thể xa lạ đó.
Mới 13 tuổi, Wernher đã ưa thích chơi pháo. Cậu nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe chạy thục mạng như một con quái vật, gây kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy ngựa bạt vía. Cậu bị cảnh sát dẫn về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng: "Wernher, mày không được làm mang tiếng tao như vậy. Tao sẽ cho mày vào ở trong ký túc xá của một trường học cách đây 5 cây số để mày hết nghịch ngợm đi". Và sang niên học mới, Wernher rời gia đình theo học tại một ngôi trường hẻo lánh tọa lạc trên một hòn đảo miền Frise. Tại nơi đây, cậu không chăm chỉ học hành. Đối với các thầy giáo, cậu là một học trò kém vì thầy hiệu trưởng đã phê bình về cậu: "Học trò thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán, khó lòng theo học nổi".
Vào năm 1925, do tình cờ Wernher Von Braun được đọc một quyển sách về thiên văn. Trong cuốn sách có vẽ một chiếc hỏa tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm theo là một bài do Hermann Oberth viết. Oberth là một trong vài lý thuyết gia đầu tiên về hỏa tiễn, cũng là đồ đệ của Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh phục không gian. Cuốn sách của Obeth, "Hỏa tiễn trong không gian liên hành tinh", đã làm ngạc nhiên nhiều người và làm điên đầu cậu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường của cậu dày hơn 100 trang này thật là khó hiểu đối với cậu, vì nó chứa đựng rất nhiều phương trình bí hiểm. Cậu quyết định xin cha cho học tư về toán học và vật lý. Có lần Von Braun đã nói "Toán Học rất cần thiết cho việc hiểu biết về cách đi đường trong không gian nên tôi quyết định tìm học". Von Braun tiến bộ về toán học và vật lý đến nỗi cậu có thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt.
Vào năm 1928, Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng một tờ báo lấy tên là "Hỏa Tiễn" và tập hợp được một số nhà bác học cùng các thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher Von Braun vừa học xong bậc trung học và đã ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin.
Mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và trình bày với ông ta về sở thích của mình đối với sự thám hiểm không gian. Von Braun lại muốn được ông Ley giới thiệu vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó, chàng Von Braun hãnh diện được vác trên vai các hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng đi.
Von Braun vác trên vai các hỏa tiễn (phải)
Thời đó, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang có ý định quay một cuốn phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận lời nhưng cũng không quên đòi hỏi một số tiền thù lao đủ để chế tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu.
Năm đó, cuốn phim "Một người đàn bà trên mặt trăng" của Fritz Lang mang lại đầy thành công trong khi việc phóng hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái với lời tán dương rầm rộ của báo chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ý họ, sở dĩ họ gặp thất bại về hỏa tiễn bởi chưa tìm ra được một thứ nhiên liệu có thể tạo nên một áp suất đủ mạnh cần thiết. Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra một chất cháy mới.
Tại Reinickendorf, ngoại ô của thành phố Berlin, có một khoảng đất rống. Hội Du Lịch Không Gian liền ký một giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày 27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên với giá là 1,500 đồng trong một năm. Khoảng đất này được đặt tên một cách hãnh diện là "Phi Trường Hỏa Tiễn". Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng chỉ vài tháng sau, đã được khắp thế giới biết đến vì tính cách đặc biệt của nó. Nhiều người đã từ các nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ tình nguyện giúp sức vào công cuộc thí nghiệm. Tại nơi đây có mặt đầy đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí: kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng các hỏa tiễn Mirak loại nhỏ cũng ra đời. Tính tới năm 1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đã thành công trong 85 lần thử và một trong các hỏa tiễn đã lên cao được một dặm, đạt kỷ lục của thời đó.
Mùa xuân năm 1932, Von Braun học xong chương trình kỹ sư của Viện Kỹ Thuật Berlin (the Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt được văn bằng Tiến sĩ Vật lý của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên, sự học hành không làm gián đoạn công cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa tiễn của Von Braun.
Wernher Von Braun chế tạo hỏa tiễn.
Vào năm 1931, quân đội Đức tìm kiếm một thứ khí giới mới, có tầm hoạt động xa mà không bị ngăn cấm bởi Hòa Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là thứ khí giới phù hợp với điều kiện trên. Đại úy kỹ sư Walter Dornberger được giao phó trách nhiệm phải viết một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta liền tới thăm phi trường hỏa tiễn trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi đó, Dornberger đã để ý đến Wernher Von Braun vì nghị lực, vì sự sáng suốt và trí hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả kế hoạch về hỏa tiễn được chuyển tới Bộ Tổng tham mưu Đức vào mùa thu năm 1932.
Vào một ngày của tháng 8 năm 1932, Von Braun được mời đến trung tâm thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf. Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông ở phía Nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20 tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật, Đại úy Dornberber làm Giám đốc quân sự còn ngân quỹ của trung tâm do Bộ binh Đức đài thọ.
Thời kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf. Tại trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xảy ra không phải là ít. Đã có lần Von Braun thoát chết, song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư danh tiếng Max Valier đã chết trên vũng máu vì máy điều chỉnh phát nổ trước kỳ hạn và đã phóng một mảnh thép vào ngực ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa học, cũng chết tan xác vì thứ thuốc nổ mới phát minh.
Walter Dornberger & Von Braun
Tại trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đã say sưa làm việc. Người ta thường thấy ông ngủ trên các họa đồ dang dở: Von Braun đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một thứ dài 1,40 mét còn thứ kia cao 3 mét.
Vào một dịp Giáng sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên của ông dự lễ trên một hòn đảo nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo Peenemunde này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một vị trí kín đáo, rất xứng đáng là nơi bắn thử vũ khí bí mật.
Từ tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc phòng Đức bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde: đường lộ, cầu cống, sân bay, bãi phóng hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận thấy các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lý gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên… hoạt động tại đây. Họ làm việc quần quật từ sáng tới tối. Phương châm của họ được khắc trên mặt tiền của trung tâm nghiên cứu: "Các vật lý gia, kỹ sư, kỹ thuật gia là những người tiền phong của Thế Giới Mới". Tại nơi đây, các tai nạn xảy ra thường xuyên nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết được nhiều bài toán mới lạ. Các hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều đó không khiến cho các tướng lãnh Quốc Xã đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ khí giới mới lạ này. Đã có lần Hitler tới thăm Trung tâm hỏa tiễn Peenemunde mà không nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản.
Sau khi thế chiến thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra đời một loại hỏa tiễn lên cao được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi phim chụp tới Hitler nhưng không được trả lời. Các tướng lãnh cao cấp Đức cũng bắt chước thái độ im lặng của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư của Von Braun. Các phương tiện thiếu dần làm cho kết quả trở nên tại hại. Quân đội Đức lại bắt đầu thua ở khắp các mặt trận, vì vậy Hitler hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh tra quân đội tới dự các cuộc phóng thử, hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại tướng Becker, được Hitler gọi đến: ông ta được quyền chọn đến trại tập trung hoặc tự sát. Ông Becker đã tự tử. Còn Von Braun, ông biết rằng nếu sau một lần bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành hạ. May mắn thay, lần thử thứ ba đã thành công.
Vào ngày 7-7-1943, Von Braun được phong tặng chức Giáo sư còn Dornberger được thăng chức Thiếu Tướng, rồi hai người được gọi đến văn phòng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xã đã tỏ ra hối tiếc rằng nếu có hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đã không có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san phẳng các thành phố London và New York trong một thời gian ngắn.
Von Braun trở về đảo Peenemunde và được toàn quyền hành động. Đảo này được tăng cường về mặt quân sự cũng như an ninh. Giám đốc Sở tình báo Gestapo đích thân theo dõi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh phòng ngày đêm, chung quanh đảo là các bãi mìn tự động và hàng rào dây kẽm có mắc điện cao thế làm cho hòn đảo trở nên bất khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa hết, người ta còn gạch tên Peenemunde trên bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng kế cận Karlshagen.
Von Braun có 5,000 người dưới quyền. Tất cả các kỹ thuật gia đều gắng sức làm việc để lấy lại thời gian đã mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của Von Braun đã bị bọn gián điệp Đồng Minh biết. Các người dân chài Thụy Điển thường kể lại rằng họ thấy các vật lạ bay rất nhanh và phát ra những tiếng động inh tai nhức óc. Có người lại nhặt được các mảnh vỡ trong đó có chứa đựng những phụ tùng điện tử.
London rất lo lắng. Lệnh oanh tạc hòn đảo Peenemunde được ban ra vào cuối tháng 7 năm 1943. Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt rồi đến ngày 17-8 mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn tấn bom đã đổ xuống hòn đảo. Toàn đảo chìm trong biển lửa. Hàng ngàn người chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên đảo, Von Braun đã phải khóc cho công trình của mình.
Một trung tâm hỏa tiễn thứ hai được thiết lập tại Volkenrode trong dãy núi Hartz. Người Đức lại cố gắng làm việc. Loại bom bay được lắp hàng loạt tại hai trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu ngầm. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng bị bắt giam trong nửa tháng: Himmler đã tố cáo ông phá hoại vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Tới khi Đại tướng Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun mới được trả lại tự do.
Từ năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công nhận rằng không có thứ vũ khí nào chống lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn. Đô Đốc Canaris, Giám đốc Sở phản gián Đức quốc, là người lo xa nên đã phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu tại nóc những tòa nhà chọc trời tại thành phố New York. Các máy phát sóng này sẽ hướng dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức nổi tại ngoài khơi Đại Tây Dương.
Các bom bay đã được sẵn sàng từ đầu năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau khi xảy ra cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí mật đó mới xuất hiện. Quả bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho chiến dịch Vergeltung (Báo Thù). Người Đức đã dùng chữ V để đặt tên cho bom bay.
Nhiều người đã kể lại rằng vào 4 giờ sáng hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một vật sáng bay lại. Vật càng tới gần, tiếng rú của máy càng được nghe rõ, rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường, trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi xuống đất Anh. Người ta tính rằng chỉ trong vòng 3 tuần lễ, thành phố London đã lãnh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương pháp phòng không. Nhưng phải chờ đợi tới 3 tháng sau, người Anh mới tìm ra cách chống đỡ.
Tới ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt đầu tung hoành. Đây là một thứ vũ khí có thể mang 800kg chất nổ tới các mục tiêu xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ thống hoàn hảo nào báo động sự lao tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đã tàn phá thành phố London và nước Hòa Lan cả ngày lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Vài năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí New Yorker, Von Braun đã nói về thứ khí giới đó: "Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa tiễn của chúng tôi được sinh ra vì một lý tưởng, nhưng lại bị áp dụng vào công việc giết người. Chúng tôi đã vẽ ra hỏa tiễn với mục đích mở đường tới các hành tinh khác, chứ không phải để tàn phá chính Trái Đất này".
Ngoài bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí giới bí mật. Người Đức còn định dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn lần : bom nguyên tử. Thực vậy, ngay từ năm 1939, nhà vật lý người Đức Otto Hahn đã thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đã chế tạo được chất Plutonium. Rồi kết quả của công trình khảo cứu của Otto Hahn trong năm 1944 đã khiến ông đoạt giải thưởng Nobel về vật lý của năm 1945. Tất cả các sự kiện này khiến người ta tin chắc rằng nước Đức đã bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử.
Vào năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến dần vào lãnh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân còn cách Peenemunde 100 cây số, Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung tâm hỏa tiễn: người ta dùng anatol, chất nổ của bom V-2, để phá hủy tất cả các cơ xưởng. Von Braun và đại đa số chuyên viên quyết định tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc đi đường, 5 kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp Hồng Quân Liên Xô. 12 năm sau, họ là những người có công đầu trong việc phóng lên không trung vệ tinh Spoutnik. Trong cuộc hành trình di tản, Von Braun bị thương ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa đựng một dự án về hỏa tiễn liên lục địa và một dự án về vệ tinh nhân tạo.
Von Braun - Chương trình không gian
ừ tháng 4 năm 1945, Đại tướng Eisenhower được lệnh thu thập, kiểm soát và gìn giữ mọi giấy tờ, hồ sơ, kế hoạch liên quan tới kỹ nghệ và khoa học cùng các tài liệu khác của các tổ chức Đức phục vụ cho mục tiêu quân sự. Vào tháng 5 năm đó, lệnh trên được nới rộng tới các khoa học gia, kỹ sư và kỹ thuật gia về hỏa tiễn của Đức Quốc. Do chiến dịch Paperclip này, hồ sơ các nhà khoa học Đức đã được cứu xét và chọn lựa để dùng vào việc di chuyển các nhà bác học Đức sang Hoa Kỳ.
Khi nghe thấy đoàn chiến xa Hoa Kỳ tiến lại gần, Von Braun đã đứng ra thương thuyết. Sau vài ngày, Von Braun và 125 nhân viên dưới quyền đã lên máy bay sang nước Mỹ. Các nhà bác học Đức được chở tới Fort Strong, thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 20-9-1945 rồi được bí mật đưa tới Aberdeen Proving Ground, Maryland. Tới tháng 5 năm 1948, con số các chuyên viên hỏa tiễn Đức và Aùo được đưa sang Hoa Kỳ lên tới 1,136 người. Họ làm việc theo hợp đồng với các bộ Lục Quân, Hải Quân, Không Quân và Thương Mại. Đa số các nhà bác học này về sau đã nhập quốc tịch Mỹ, kể cả Von Braun (1955) và Dornberger.
Công tác đầu tiên của Von Braun tại Hoa Kỳ là chọn lọc và đối chiếu lại các tài liệu khoa học thu thập được từ nước Đức, rồi ông được đưa tới White Sands, gần El Paso trong tiểu bang Texas. Tại miền biên giới Mễ Tây Cơ này, Von Braun thấy lại tất cả các cơ xưởng, đài quan sát như tại Peenemunde khi trước, nhưng ông không khỏi cảm thấy chán nản vì chính phủ Hoa Kỳ đã không chú ý đến chương trình thám hiểm không gian bằng hỏa tiễn. Các bom bay V-2 được cải tiến hơn trước, nhưng khí cụ này không thể bay thật cao và chỉ được dùng vào các công cuộc khảo cứu khí tượng.
Tới năm 1947, Von Braun được phép trở lại miền Bavière trong một thời gian ngắn. Tại nơi này, ông kết hôn với cô em họ 18 tuổi tên là Marie Louise Von Quistorp. Để đề phòng ông bị Liên Xô bắt cóc, các thám tử luôn luôn canh chừng ông, ngay cả trong thời kỳ trăng mật.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên xảy ra. Năm 1950, các nhà bác học Đức được đưa về Huntsville, Alabama, và được lệnh chế tạo cho Lục Quân một loại hỏa tiễn có tầm hoạt động xa và có thể mang đầu đạn nguyên tử. Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật của chương trình vũ khí phi đạn của Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Army ballistic-weapon program)
Vào năm 1953, hỏa tiễn Redstone của Von Braun được phóng lên tại Mũi Canaveral khiến cho nhiều người hy vọng rằng chương trình thám hiểm không gian có thể thực hiện được. Mùa hè năm 1954, Von Braun cùng một nhóm kỹ thuật gia tới Washington đề nghị phóng lên không gian một vệ tinh nặng từ 2 tới 3kg. Nhưng Trung tâm nghiên cứu Hải Quân cam đoan sẽ phóng một vệ tinh có chứa máy ghi lên quỹ đạo của Trái Đất mà chỉ dùng tới 88,000 mỹ kim. Người ta quyết định giao cho Bộ Hải Quân vì chương trình Vanguard đẹp về mặt lý thuyết hơn, và vệ tinh sẽ được phóng lên không gian vào Năm Địa Cầu Vật Lý Học (1957-1958).
Von Braun và nhóm chuyên gia của ông thực ra là vô địch về phương diện hỏa tiễn, tuy nhiên họ chỉ được phép chế tạo loại hỏa tiễn có tầm hoạt động trung bình. Tháng 9 năm 1956, hỏa tiễn Jupiter-C đã bay được 5,300 km, nghĩa là vượt qua tất cả các loại phi đạn tự động của Hoa Kỳ. Von Braun hy vọng sẽ dùng loại hỏa tiễn Jupiter-C này vào việc phóng vệ tinh. Ông chờ đợi.
Bỗng vào ngày 4-8-1957, Liên Xô đã phóng thành công lên không gian vệ tinh Spoutnik, làm cho thế giới Tự Do hoảng hốt. Von Braun biết rằng giờ đã điểm. Ông tới Thủ đô Washington và xin phép phóng một vệ tinh lên quỹ đạo trong 60 ngày. Việc phóng vệ tinh Vanguard của Hải Quân đã thất bại đau đớn. Bây giờ tới lượt Von Braun. Ngày 31-1-1958 tại Mũi Canaveral, hỏa tiễn Jupiter-C 4 tầng đã đặt vào quỹ đạo của trái đất vệ tinh "Thám Hiểm I" (Explorer I) nặng 14kg. Một loại hỏa tiễn khác của Von Braun tên là Redstone đã đưa Alan B. Shepard, Jr., phi hành gia đầu tiên của Hoa Kỳ lên quỹ đạo của Trái Đất vào năm 1961.
Vào năm 1958, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật cho phép thành lập một cơ quan liên bang mới gọi tên là Cơ quan quản trị hàng không và không gian NASA (the National Aeronautics and Space Administration). Nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu các kỹ thuật bay trong và ngoài lớp khí quyển của trái đất, chế tạo, thử nghiệm và điều hành các phi thuyền trong không gian, khám phá vũ trụ bằng các phi thuyền không người và có người lái, cộng tác với các quốc gia khác trong nhiều dự án sử dụng không gian vì hòa bình. Trong số các nhân vật đầu tiên được bổ nhiệm vào Cơ quan NASA có Von Braun, một chuyên gia hàng đầu về hỏa tiễn, giữ chức Giám đốc trung tâm không gian George C. Marshall (the George C. Marshall Space Flight Center) tại Huntsville, Alabama.
Trong các năm sau, Von Braun đã giúp công vào 3 chương trình bay trong không trung là Mercury, Gemini và Apollo, chường trình đáp xuống Mặt Trăng. Chính nhờ Von Braun, hỏa tiễn khổng lồ Saturn V đã được chế tạo. Đây là loại hỏa tiễn 3 tầng, cao gần 110 mét (hơn 360 feet), nặng khoảng 3,000 tấn. Khi phóng đi, sức đẩy của hỏa tiễn này là 7,500,000 pounds, đốt cháy hơn 10 tấn nhiên liệu trong mỗi phút đồng hồ. Năm 1969, hỏa tiễn Saturn V đã đưa các phi hành gia lên Mặt Trăng. Các thành công về kỹ thuật của các hỏa tiễn loại Saturn đã là các kỷ lục của thời đại đó.
Cuộc chạy đua về thám hiểm không gian giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã làm cho ngành Hàng Không Liên Hành Tinh tiến vượt mức. Con người từ nay đã có hy vọng vượt khỏi trái đất chật hẹp của mình để đi tìm các thế giới xa lạ.
Vào năm 1975, ông Von Braun tổ chức Viện không gian Quốc gia (the National Space Institute). Đây là một cơ quan tư, có mục đích tìm hiểu và phổ biến các hoạt động khoa học về không gian với sự ủng hộ của đại chúng. Do các đóng góp về kỹ thuật không gian, ông Von Braun đã lãnh được rất nhiều bằng khen, phần thưởng… Ông Von Braun qua đời vào ngày 16-6-1977 tại Alexandria, Virginia.
Von Braun tin chắc rằng chỉ trong một thời gian gần đây, con người có thể tới được Hỏa Tinh, hành tinh mà vào thời ông còn trẻ, mẹ ông thường chỉ cho ông thấy qua kính thiên văn vào những đêm quang đãng. Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí.
Thuở thiếu thời nhà bác học hỏa tiễn Wernher Von Braun
Vào cuối cuộc thế chiến thứ Hai, dân chúng nước Anh đã kinh hoàng, điêu đứng vì một thứ khí giới mới: bom bay. Các quả bom không biết từ đâu đã rơi xuống thành phố London cả ngày lẫn đêm. Cha đẻ của thứ vũ khí này là một nhà bác học trẻ tuổi mà thời bấy giờ giới Khoa Học chưa được biết tiếng: Wernher Von Braun (1912 - 1977)
Wernher Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz, tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước Đức, phần đất này ngày nay đã thuộc về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha cậu là một điền chủ nghiêm nghị, đã từng tham gia vào việc chính trị của nước Đức thời Cộng Hòa Weimar, còn mẹ cậu, bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê thiên văn học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành tinh cùng các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì vậy cậu Wernher đã ước mơ một ngày kia cậu có thể đặt chân lên các thiên thể xa lạ đó.
Mới 13 tuổi, Wernher đã ưa thích chơi pháo. Cậu nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe chạy thục mạng như một con quái vật, gây kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy ngựa bạt vía. Cậu bị cảnh sát dẫn về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng: "Wernher, mày không được làm mang tiếng tao như vậy. Tao sẽ cho mày vào ở trong ký túc xá của một trường học cách đây 5 cây số để mày hết nghịch ngợm đi". Và sang niên học mới, Wernher rời gia đình theo học tại một ngôi trường hẻo lánh tọa lạc trên một hòn đảo miền Frise. Tại nơi đây, cậu không chăm chỉ học hành. Đối với các thầy giáo, cậu là một học trò kém vì thầy hiệu trưởng đã phê bình về cậu: "Học trò thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán, khó lòng theo học nổi".
Vào năm 1925, do tình cờ Wernher Von Braun được đọc một quyển sách về thiên văn. Trong cuốn sách có vẽ một chiếc hỏa tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm theo là một bài do Hermann Oberth viết. Oberth là một trong vài lý thuyết gia đầu tiên về hỏa tiễn, cũng là đồ đệ của Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh phục không gian. Cuốn sách của Obeth, "Hỏa tiễn trong không gian liên hành tinh", đã làm ngạc nhiên nhiều người và làm điên đầu cậu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường của cậu dày hơn 100 trang này thật là khó hiểu đối với cậu, vì nó chứa đựng rất nhiều phương trình bí hiểm. Cậu quyết định xin cha cho học tư về toán học và vật lý. Có lần Von Braun đã nói "Toán Học rất cần thiết cho việc hiểu biết về cách đi đường trong không gian nên tôi quyết định tìm học". Von Braun tiến bộ về toán học và vật lý đến nỗi cậu có thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt.
Vào năm 1928, Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng một tờ báo lấy tên là "Hỏa Tiễn" và tập hợp được một số nhà bác học cùng các thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher Von Braun vừa học xong bậc trung học và đã ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin.
Mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và trình bày với ông ta về sở thích của mình đối với sự thám hiểm không gian. Von Braun lại muốn được ông Ley giới thiệu vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó, chàng Von Braun hãnh diện được vác trên vai các hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng đi.
Von Braun vác trên vai các hỏa tiễn (phải)
Thời đó, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang có ý định quay một cuốn phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận lời nhưng cũng không quên đòi hỏi một số tiền thù lao đủ để chế tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu.
Năm đó, cuốn phim "Một người đàn bà trên mặt trăng" của Fritz Lang mang lại đầy thành công trong khi việc phóng hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái với lời tán dương rầm rộ của báo chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ý họ, sở dĩ họ gặp thất bại về hỏa tiễn bởi chưa tìm ra được một thứ nhiên liệu có thể tạo nên một áp suất đủ mạnh cần thiết. Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra một chất cháy mới.
Tại Reinickendorf, ngoại ô của thành phố Berlin, có một khoảng đất rống. Hội Du Lịch Không Gian liền ký một giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày 27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên với giá là 1,500 đồng trong một năm. Khoảng đất này được đặt tên một cách hãnh diện là "Phi Trường Hỏa Tiễn". Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng chỉ vài tháng sau, đã được khắp thế giới biết đến vì tính cách đặc biệt của nó. Nhiều người đã từ các nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ tình nguyện giúp sức vào công cuộc thí nghiệm. Tại nơi đây có mặt đầy đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí: kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng các hỏa tiễn Mirak loại nhỏ cũng ra đời. Tính tới năm 1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đã thành công trong 85 lần thử và một trong các hỏa tiễn đã lên cao được một dặm, đạt kỷ lục của thời đó.
Mùa xuân năm 1932, Von Braun học xong chương trình kỹ sư của Viện Kỹ Thuật Berlin (the Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt được văn bằng Tiến sĩ Vật lý của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên, sự học hành không làm gián đoạn công cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa tiễn của Von Braun.
Wernher Von Braun chế tạo hỏa tiễn.
Vào năm 1931, quân đội Đức tìm kiếm một thứ khí giới mới, có tầm hoạt động xa mà không bị ngăn cấm bởi Hòa Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là thứ khí giới phù hợp với điều kiện trên. Đại úy kỹ sư Walter Dornberger được giao phó trách nhiệm phải viết một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta liền tới thăm phi trường hỏa tiễn trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi đó, Dornberger đã để ý đến Wernher Von Braun vì nghị lực, vì sự sáng suốt và trí hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả kế hoạch về hỏa tiễn được chuyển tới Bộ Tổng tham mưu Đức vào mùa thu năm 1932.
Vào một ngày của tháng 8 năm 1932, Von Braun được mời đến trung tâm thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf. Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông ở phía Nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20 tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật, Đại úy Dornberber làm Giám đốc quân sự còn ngân quỹ của trung tâm do Bộ binh Đức đài thọ.
Thời kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf. Tại trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xảy ra không phải là ít. Đã có lần Von Braun thoát chết, song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư danh tiếng Max Valier đã chết trên vũng máu vì máy điều chỉnh phát nổ trước kỳ hạn và đã phóng một mảnh thép vào ngực ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa học, cũng chết tan xác vì thứ thuốc nổ mới phát minh.
Walter Dornberger & Von Braun
Tại trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đã say sưa làm việc. Người ta thường thấy ông ngủ trên các họa đồ dang dở: Von Braun đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một thứ dài 1,40 mét còn thứ kia cao 3 mét.
Vào một dịp Giáng sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên của ông dự lễ trên một hòn đảo nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo Peenemunde này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một vị trí kín đáo, rất xứng đáng là nơi bắn thử vũ khí bí mật.
Từ tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc phòng Đức bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde: đường lộ, cầu cống, sân bay, bãi phóng hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận thấy các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lý gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên… hoạt động tại đây. Họ làm việc quần quật từ sáng tới tối. Phương châm của họ được khắc trên mặt tiền của trung tâm nghiên cứu: "Các vật lý gia, kỹ sư, kỹ thuật gia là những người tiền phong của Thế Giới Mới". Tại nơi đây, các tai nạn xảy ra thường xuyên nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết được nhiều bài toán mới lạ. Các hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều đó không khiến cho các tướng lãnh Quốc Xã đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ khí giới mới lạ này. Đã có lần Hitler tới thăm Trung tâm hỏa tiễn Peenemunde mà không nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản.
Sau khi thế chiến thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra đời một loại hỏa tiễn lên cao được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi phim chụp tới Hitler nhưng không được trả lời. Các tướng lãnh cao cấp Đức cũng bắt chước thái độ im lặng của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư của Von Braun. Các phương tiện thiếu dần làm cho kết quả trở nên tại hại. Quân đội Đức lại bắt đầu thua ở khắp các mặt trận, vì vậy Hitler hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh tra quân đội tới dự các cuộc phóng thử, hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại tướng Becker, được Hitler gọi đến: ông ta được quyền chọn đến trại tập trung hoặc tự sát. Ông Becker đã tự tử. Còn Von Braun, ông biết rằng nếu sau một lần bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành hạ. May mắn thay, lần thử thứ ba đã thành công.
Vào ngày 7-7-1943, Von Braun được phong tặng chức Giáo sư còn Dornberger được thăng chức Thiếu Tướng, rồi hai người được gọi đến văn phòng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xã đã tỏ ra hối tiếc rằng nếu có hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đã không có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san phẳng các thành phố London và New York trong một thời gian ngắn.
Von Braun trở về đảo Peenemunde và được toàn quyền hành động. Đảo này được tăng cường về mặt quân sự cũng như an ninh. Giám đốc Sở tình báo Gestapo đích thân theo dõi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh phòng ngày đêm, chung quanh đảo là các bãi mìn tự động và hàng rào dây kẽm có mắc điện cao thế làm cho hòn đảo trở nên bất khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa hết, người ta còn gạch tên Peenemunde trên bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng kế cận Karlshagen.
Von Braun có 5,000 người dưới quyền. Tất cả các kỹ thuật gia đều gắng sức làm việc để lấy lại thời gian đã mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của Von Braun đã bị bọn gián điệp Đồng Minh biết. Các người dân chài Thụy Điển thường kể lại rằng họ thấy các vật lạ bay rất nhanh và phát ra những tiếng động inh tai nhức óc. Có người lại nhặt được các mảnh vỡ trong đó có chứa đựng những phụ tùng điện tử.
London rất lo lắng. Lệnh oanh tạc hòn đảo Peenemunde được ban ra vào cuối tháng 7 năm 1943. Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt rồi đến ngày 17-8 mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn tấn bom đã đổ xuống hòn đảo. Toàn đảo chìm trong biển lửa. Hàng ngàn người chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên đảo, Von Braun đã phải khóc cho công trình của mình.
Một trung tâm hỏa tiễn thứ hai được thiết lập tại Volkenrode trong dãy núi Hartz. Người Đức lại cố gắng làm việc. Loại bom bay được lắp hàng loạt tại hai trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu ngầm. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng bị bắt giam trong nửa tháng: Himmler đã tố cáo ông phá hoại vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Tới khi Đại tướng Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun mới được trả lại tự do.
Từ năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công nhận rằng không có thứ vũ khí nào chống lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn. Đô Đốc Canaris, Giám đốc Sở phản gián Đức quốc, là người lo xa nên đã phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu tại nóc những tòa nhà chọc trời tại thành phố New York. Các máy phát sóng này sẽ hướng dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức nổi tại ngoài khơi Đại Tây Dương.
Các bom bay đã được sẵn sàng từ đầu năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau khi xảy ra cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí mật đó mới xuất hiện. Quả bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho chiến dịch Vergeltung (Báo Thù). Người Đức đã dùng chữ V để đặt tên cho bom bay.
Nhiều người đã kể lại rằng vào 4 giờ sáng hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một vật sáng bay lại. Vật càng tới gần, tiếng rú của máy càng được nghe rõ, rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường, trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi xuống đất Anh. Người ta tính rằng chỉ trong vòng 3 tuần lễ, thành phố London đã lãnh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương pháp phòng không. Nhưng phải chờ đợi tới 3 tháng sau, người Anh mới tìm ra cách chống đỡ.
Tới ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt đầu tung hoành. Đây là một thứ vũ khí có thể mang 800kg chất nổ tới các mục tiêu xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ thống hoàn hảo nào báo động sự lao tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đã tàn phá thành phố London và nước Hòa Lan cả ngày lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Vài năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí New Yorker, Von Braun đã nói về thứ khí giới đó: "Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa tiễn của chúng tôi được sinh ra vì một lý tưởng, nhưng lại bị áp dụng vào công việc giết người. Chúng tôi đã vẽ ra hỏa tiễn với mục đích mở đường tới các hành tinh khác, chứ không phải để tàn phá chính Trái Đất này".
Ngoài bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí giới bí mật. Người Đức còn định dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn lần : bom nguyên tử. Thực vậy, ngay từ năm 1939, nhà vật lý người Đức Otto Hahn đã thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đã chế tạo được chất Plutonium. Rồi kết quả của công trình khảo cứu của Otto Hahn trong năm 1944 đã khiến ông đoạt giải thưởng Nobel về vật lý của năm 1945. Tất cả các sự kiện này khiến người ta tin chắc rằng nước Đức đã bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử.
Vào năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến dần vào lãnh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân còn cách Peenemunde 100 cây số, Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung tâm hỏa tiễn: người ta dùng anatol, chất nổ của bom V-2, để phá hủy tất cả các cơ xưởng. Von Braun và đại đa số chuyên viên quyết định tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc đi đường, 5 kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp Hồng Quân Liên Xô. 12 năm sau, họ là những người có công đầu trong việc phóng lên không trung vệ tinh Spoutnik. Trong cuộc hành trình di tản, Von Braun bị thương ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa đựng một dự án về hỏa tiễn liên lục địa và một dự án về vệ tinh nhân tạo.
Von Braun - Chương trình không gian
ừ tháng 4 năm 1945, Đại tướng Eisenhower được lệnh thu thập, kiểm soát và gìn giữ mọi giấy tờ, hồ sơ, kế hoạch liên quan tới kỹ nghệ và khoa học cùng các tài liệu khác của các tổ chức Đức phục vụ cho mục tiêu quân sự. Vào tháng 5 năm đó, lệnh trên được nới rộng tới các khoa học gia, kỹ sư và kỹ thuật gia về hỏa tiễn của Đức Quốc. Do chiến dịch Paperclip này, hồ sơ các nhà khoa học Đức đã được cứu xét và chọn lựa để dùng vào việc di chuyển các nhà bác học Đức sang Hoa Kỳ.
Khi nghe thấy đoàn chiến xa Hoa Kỳ tiến lại gần, Von Braun đã đứng ra thương thuyết. Sau vài ngày, Von Braun và 125 nhân viên dưới quyền đã lên máy bay sang nước Mỹ. Các nhà bác học Đức được chở tới Fort Strong, thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 20-9-1945 rồi được bí mật đưa tới Aberdeen Proving Ground, Maryland. Tới tháng 5 năm 1948, con số các chuyên viên hỏa tiễn Đức và Aùo được đưa sang Hoa Kỳ lên tới 1,136 người. Họ làm việc theo hợp đồng với các bộ Lục Quân, Hải Quân, Không Quân và Thương Mại. Đa số các nhà bác học này về sau đã nhập quốc tịch Mỹ, kể cả Von Braun (1955) và Dornberger.
Công tác đầu tiên của Von Braun tại Hoa Kỳ là chọn lọc và đối chiếu lại các tài liệu khoa học thu thập được từ nước Đức, rồi ông được đưa tới White Sands, gần El Paso trong tiểu bang Texas. Tại miền biên giới Mễ Tây Cơ này, Von Braun thấy lại tất cả các cơ xưởng, đài quan sát như tại Peenemunde khi trước, nhưng ông không khỏi cảm thấy chán nản vì chính phủ Hoa Kỳ đã không chú ý đến chương trình thám hiểm không gian bằng hỏa tiễn. Các bom bay V-2 được cải tiến hơn trước, nhưng khí cụ này không thể bay thật cao và chỉ được dùng vào các công cuộc khảo cứu khí tượng.
Tới năm 1947, Von Braun được phép trở lại miền Bavière trong một thời gian ngắn. Tại nơi này, ông kết hôn với cô em họ 18 tuổi tên là Marie Louise Von Quistorp. Để đề phòng ông bị Liên Xô bắt cóc, các thám tử luôn luôn canh chừng ông, ngay cả trong thời kỳ trăng mật.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên xảy ra. Năm 1950, các nhà bác học Đức được đưa về Huntsville, Alabama, và được lệnh chế tạo cho Lục Quân một loại hỏa tiễn có tầm hoạt động xa và có thể mang đầu đạn nguyên tử. Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật của chương trình vũ khí phi đạn của Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Army ballistic-weapon program)
Vào năm 1953, hỏa tiễn Redstone của Von Braun được phóng lên tại Mũi Canaveral khiến cho nhiều người hy vọng rằng chương trình thám hiểm không gian có thể thực hiện được. Mùa hè năm 1954, Von Braun cùng một nhóm kỹ thuật gia tới Washington đề nghị phóng lên không gian một vệ tinh nặng từ 2 tới 3kg. Nhưng Trung tâm nghiên cứu Hải Quân cam đoan sẽ phóng một vệ tinh có chứa máy ghi lên quỹ đạo của Trái Đất mà chỉ dùng tới 88,000 mỹ kim. Người ta quyết định giao cho Bộ Hải Quân vì chương trình Vanguard đẹp về mặt lý thuyết hơn, và vệ tinh sẽ được phóng lên không gian vào Năm Địa Cầu Vật Lý Học (1957-1958).
Von Braun và nhóm chuyên gia của ông thực ra là vô địch về phương diện hỏa tiễn, tuy nhiên họ chỉ được phép chế tạo loại hỏa tiễn có tầm hoạt động trung bình. Tháng 9 năm 1956, hỏa tiễn Jupiter-C đã bay được 5,300 km, nghĩa là vượt qua tất cả các loại phi đạn tự động của Hoa Kỳ. Von Braun hy vọng sẽ dùng loại hỏa tiễn Jupiter-C này vào việc phóng vệ tinh. Ông chờ đợi.
Bỗng vào ngày 4-8-1957, Liên Xô đã phóng thành công lên không gian vệ tinh Spoutnik, làm cho thế giới Tự Do hoảng hốt. Von Braun biết rằng giờ đã điểm. Ông tới Thủ đô Washington và xin phép phóng một vệ tinh lên quỹ đạo trong 60 ngày. Việc phóng vệ tinh Vanguard của Hải Quân đã thất bại đau đớn. Bây giờ tới lượt Von Braun. Ngày 31-1-1958 tại Mũi Canaveral, hỏa tiễn Jupiter-C 4 tầng đã đặt vào quỹ đạo của trái đất vệ tinh "Thám Hiểm I" (Explorer I) nặng 14kg. Một loại hỏa tiễn khác của Von Braun tên là Redstone đã đưa Alan B. Shepard, Jr., phi hành gia đầu tiên của Hoa Kỳ lên quỹ đạo của Trái Đất vào năm 1961.
Vào năm 1958, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật cho phép thành lập một cơ quan liên bang mới gọi tên là Cơ quan quản trị hàng không và không gian NASA (the National Aeronautics and Space Administration). Nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu các kỹ thuật bay trong và ngoài lớp khí quyển của trái đất, chế tạo, thử nghiệm và điều hành các phi thuyền trong không gian, khám phá vũ trụ bằng các phi thuyền không người và có người lái, cộng tác với các quốc gia khác trong nhiều dự án sử dụng không gian vì hòa bình. Trong số các nhân vật đầu tiên được bổ nhiệm vào Cơ quan NASA có Von Braun, một chuyên gia hàng đầu về hỏa tiễn, giữ chức Giám đốc trung tâm không gian George C. Marshall (the George C. Marshall Space Flight Center) tại Huntsville, Alabama.
Trong các năm sau, Von Braun đã giúp công vào 3 chương trình bay trong không trung là Mercury, Gemini và Apollo, chường trình đáp xuống Mặt Trăng. Chính nhờ Von Braun, hỏa tiễn khổng lồ Saturn V đã được chế tạo. Đây là loại hỏa tiễn 3 tầng, cao gần 110 mét (hơn 360 feet), nặng khoảng 3,000 tấn. Khi phóng đi, sức đẩy của hỏa tiễn này là 7,500,000 pounds, đốt cháy hơn 10 tấn nhiên liệu trong mỗi phút đồng hồ. Năm 1969, hỏa tiễn Saturn V đã đưa các phi hành gia lên Mặt Trăng. Các thành công về kỹ thuật của các hỏa tiễn loại Saturn đã là các kỷ lục của thời đại đó.
Cuộc chạy đua về thám hiểm không gian giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã làm cho ngành Hàng Không Liên Hành Tinh tiến vượt mức. Con người từ nay đã có hy vọng vượt khỏi trái đất chật hẹp của mình để đi tìm các thế giới xa lạ.
Vào năm 1975, ông Von Braun tổ chức Viện không gian Quốc gia (the National Space Institute). Đây là một cơ quan tư, có mục đích tìm hiểu và phổ biến các hoạt động khoa học về không gian với sự ủng hộ của đại chúng. Do các đóng góp về kỹ thuật không gian, ông Von Braun đã lãnh được rất nhiều bằng khen, phần thưởng… Ông Von Braun qua đời vào ngày 16-6-1977 tại Alexandria, Virginia.
Von Braun tin chắc rằng chỉ trong một thời gian gần đây, con người có thể tới được Hỏa Tinh, hành tinh mà vào thời ông còn trẻ, mẹ ông thường chỉ cho ông thấy qua kính thiên văn vào những đêm quang đãng. Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí.

Dự đoán kỳ diệu-Bảng tuần hoàn Menđêlêep ra đời
Đmitri Ivanôvích Menđêlêep (1834 - 1907): Menđêlêep là nhà hóa học và là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng nước Nga. Ông tốt nghiệp đại học năm 21 tuổi đã từng là giáo viên trung học, sau đó đến dạy học tại trường Đại học Pêtécbua chuyên ngành hóa học, ông đã lần lượt qua Pháp, Đức học tập nghiên cứu. Cống hiến lớn nhất của ông là nghiên cứu ra bảng tuần hoàn Menđêlêep, đây là một cống hiến xuyên thời đại đối với lĩnh vực phát triển hóa học của ông, người sau mệnh danh ông là "thần cửa của khoa học Nga" (door - god).
Cống hiến xuất sắc nhất của Menđêlêep là phát hiện ra quy luật biến hóa mang tính chu kỳ của các nguyên tố hóa học gọi tắt là quy luật tuần hoàn các nguyên tố.
Khi Menđêlêep viết "Nguyên lý hóa học", ông nghĩ đến lúc này trong số các nguyên tố đã phát hiện trên thế giới là 63 nguyên tố, giữa chúng nhất định có những quy luật biến hóa thống nhất, vì rằng tất cả các sự vật điều có liên quan với nhau. Để phát hiện quy luật này ông đã đăng ký 63 nguyên tố này vào 63 chiếc thẻ, trên thẻ ông viết tên, nguyên tử lượng, tính chất hóa học của nguyên tố. Ông dùng 63 chiếc thẻ mang tên 63 nguyên tố này xếp đi xếp lại trên bàn. Bỗng nhiên một hôm ông phát hiện ra rằng nếu xếp các nguyên tố này theo sự lớn nhỏ của nguyên tử lượng thì sẽ xuất hiện sự biến hóa mang tính liên tục rất kỳ lạ, nó giống như một bản nhạc kỳ diệu vậy. Menđêlêep không giấu nổi niềm vui, ông tin tưởng chắc chắn rằng loại quy luật này chứng tỏ quan hệ của vạn vật trên thế giới này là tất nhiên và có luật tuần hoàn của chúng.
Menđêlêep như đã có chìa khóa mở cánh cửa của mê cung đã phát hiện trên những bí mật của cả cung điện. Ông đã sắp xếp những nguyên tố thành một bảng tuần hoàn, trong đó có những nguyên tố vẫn phải để trống. Ông công bố tác phẩm của mình, kiên trì chờ đợi kết quả kiểm nghiệm của các nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới đối với quy luật tuần hoàn của các nguyên tố, nhưng suốt 4 năm không phát hiện thêm được nguyên tố mới nào.
Năm 1875 Viện Hàn lâm khoa học Pari nhận được thư của một nhà khoa học, trong thư nói ông đã tạo ra được một nguyên tố mới trong quặng kẽm trắng, ông gọi nguyên tố là "Gali". Tính chất của Gali giống như nhôm, nguyên tử lượng là 59,72; tỷ trọng là 4,7. Nghe được tin này Menđêlêep mắt sáng hẳn lên, theo phát hiện 4 năm trước đây của mình nguyên tố mới này cùng "nhóm của nhôm" đây là điều 4 năm trước ông đã dự đoán. Nhưng ông lại cảm thấy không yên tâm, theo cách tính của bảng tuần hoàn thì nguyên tử lượng của nhôm phải là khoảng 68, tỷ tọng phải là 5,9 - 6,0. Menđêlêep tin rằng mình đúng, ông lập tức viết thư cho Viện Hàn lâm khoa học Pari nói ý kiến của mình.
Bức thư được chuyển đến tay nhà khoa học đã công bố phát hiện ra Gali. Ông ấy hết sức ngạc nhiên, Menđêlêep chưa nhìn thấy mặt "Gali" mà dám nói biết được nguyên tử lượng và tỷ trọng của nó là bao nhiêu, cứ như là chuyện đùa? Nhưng vì thận trọng, nhà khoa học ấy đã tiến hành xác định lại một lần nữa những số liệu trên, kết quả vẫn không thay đổi.
Một thời gian sau, nhà khoa học người Pháp này lại nhận được thư của Menđêlêep, lời lẽ trong thư hết sức tự tin, hình như không phải là đang nói đến nguyên tố mới, mà là đang làm một bài toán: "4 + ( ) = 10". Nhưng là nhà khoa học ông không thể xem thường ý kiến của Menđêlêep. Ông lại tuyển Gali một lần nữa rồi xác định những chỉ số của nó, kết quả lần này làm ông ngạc nhiên bởi đúng như dự đoán của Menđêlêep: Tỷ trọng của Gali là 5,94; đây đúng là một sự trùng hợp đặc biệt không thể tưởng tượng được.
Sau khi lời dự đoán kỳ lạ này được chứng thực, cả giới hóa học kinh ngạc. Lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố học đã bị lãng quên nhiều năm, nay được mọi người coi trọng, một số nhà khoa học đã chân thành chúc mừng sự phát hiện tài ba của Menđêlêep. Bảng tuần hoàn nhanh chóng được dịch thành nhiều thứ tiếng và truyền bá đi khắp nơi trên trái đất. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học (còn gọi là bảng tuần hoàn Menđêlêep) trên 100 năm qua đã là chìa khóa dẫn đến việc phát minh nhiều nguyên tố hóa học mới.
Bốn năm sau, Thụy Điển phát hiện một loại nguyên tố mới khác, có người gọi nó là "Scanđi". Khi mọi người nghiên cứu sâu hơn một bước thì phát hiện ra rằng "Scanđi" chính là nguyên tố nằm trong "nhóm của Bo" mà Menđêlêep đã dự đoán. Mọi người phát hiện ra rằng lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố không chỉ có thể dự kiến vị trí cho các nguyên tố chưa tìm ra "mà còn có thế biết trước được tính chất quan trọng của chúng".
"Nguyên lý hóa học" của Menđêlêep đã được đánh giá rất cao, trở thành bộ sách giáo khoa kinh điển được thế giới công nhận. Có người đánh giá Menđêlêep như sau: "Trong lịch sử hóa học, ông dùng một chủ đề đơn giản mà đã gọi ra được cả thế giới".
Menđêlêep: Dũng cảm bay vào không trung
Khi tuổi đã ngoài 50 Menđêlêep vẫn giữ được nhiệt huyết đối với công việc khám phá khoa học, ông muốn được bay lên không trung để nghiên cứu không khí lớp trên của tầng khí quyển.
Menđêlêep quyết định sẽ bay vào không trung vào ngày 19 tháng 08 năm 1887, vì ngày đó là ngày Nhật thực, một cơ hội hiếm có. Mà bay vào không trung phải chuẩn bị rất nhiều việc, khó khăn gặp phải đầu tiên là không có tiền để làm quả khí cầu. Ông tự tay thiết kế, vẽ, chế tạo lấy quả khí cầu và một dụng cụ đo khí áp thật nhạy. Phía dưới quả khinh khí cầu treo một cái giỏ lớn cho hai người ngồi. Ông Cocơrin chuyên gia hàng không điều khiển khí cầu, Menđêlêep tiến hành quan sát và nghiên cứu.
Cuối cùng thì ngày đó cũng đến. Khi mọi công việc đã chuẩn bị xong thì phát hiện ra lực nâng của khí cầu nhỏ không nâng nổi hai người lên, Menđêlêep quyết định bay một mình. Bạn bè đều khuyên ông: "Bay một mình rất nguy hiểm, đợi lần sau chuẩn bị tốt rồi sẽ tính". Menđêlêep nói: "Tôi không còn thời giờ nữa, không thể bỏ lỡ thời cơ. Mọi người có nhớ không? Nhật thực toàn phần lần trước cách đây 19 năm, nhà thiên văn học người Pháp phát hiện ra cái gì? Khi dùng kính phân tích ánh sáng nhìn thẳng lên mặt trời Nhật thực, thấy xuất hiện một vạch sáng màu vàng. Về sau mọi người đều đoán đó là nguyên tố mới, họ gọi đó là Hêli. Đến giờ tôi vẫn nghi ngờ là có tồn tại nguyên tố này không? Nếu không có lần quan sát này thì nghi ngờ của tôi không có gì để nói. Nhật thực không mấy chốc đã có, tôi không thể bỏ lỡ thời cơ được".
Co cơ rin nói với ông: "Thế thì để tôi đi, anh chưa bao giờ điều khiển khí cầu mà một mình bay thì thật nguy hiểm".
Menđêlêep cương quyết đòi đi, ông biết có rất nhiều người đang chờ chuyến bay này của ông. Menđêlêep sùng bái nhà hóa học Đantơn, cuộc đời khoa học của ông Đantơn kết thúc bằng một lần quan sát thực nghiệm khí tượng. Ông cười và nói với mọi người rằng: "Không phải lo gì cho tôi, nếu không may có chuyện gì xảy ra với tôi lúc đang bay thì tin rằng ngài Đantơn sẽ đón tôi".
Khí cầu từ từ bay lên không trung, càng bay càng cao. Ông ngồi trong giỏ treo tập trung quan sát Nhật thực, quan sát hiện tượng khí tượng. Ông nhìn thấy mặt trời đang bị nuốt đi, ông chăm chú nhìn quan dụng cụ trắc nghiệm.
Bỗng nhiên bộ phận thao tác điều khiển khí cầu có sự cố, khí cầu lúc nào cũng ở trạng thái rơi xuống. Menđêlêep quan sát tình hình sự cố, tính cách sửa chữa, rồi ông quyết định trèo lên dây treo của khí cầu.
Những người đứng dưới mặt đất nhìn Menđêlêep, từ giỏ trèo lên dây treo, ai cũng thót tim. May sao ông xử lý sự cố thành công và đã trở về vị trí. Khí cầu từ từ hạ xuống, khi Menđêlêep rời khỏi giỏ treo mọi người đều reo mừng.
Do thành công trong chuyến bay này, Học viện Hàng không khí tượng Pháp đã tặng Menđêlêep Kỷ niệm chương.
Menđêlêep: Tôi thuộc về nhân dân
Menđêlêep đã trở thành nhân vật nổi tiếng ở Nga; mỗi khi ra đường thường có rất nhiều người ngưỡng mộ ông đi theo sau. Ông là người có tính cách hào phóng, thẳng thắn, chân thành, không câu nệ các chi tiết vụn vặt, ngay cả với người giúp việc cũng thân tình cởi mở. Menđêlêep là nhiềm kiêu hãnh của giới khoa học Nga, cũng là người thầy được học sinh yêu quý nhất ở trường Đại học Saint Petersburg.
Bài giảng của Menđêlêep sinh động, hấp dẫn, hội trường ông giảng bài luôn chật cứng người, thậm chí ngay cả các phòng học xung quanh cũng kín người ngồi nghe. Bài ông giảng nội dung rất rộng. giảng giải kỹ càng, lại thêm kiến thức văn học sâu rộng, ngôn từ xúc tích nên có sức thu hút rất lớn. Mọi người đều nghĩ "Ông giống một nhà diễn thuyết tài ba".
Nhưng chính nhà khoa học được nhiều người ngưỡng mộ như vậy lại bị chính phủ chuyên chế Sa hoàng bài xích.
Một viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Nga mất, theo điều lệ của Viện Hàn lâm khoa học Nga, sau khi khuyết vị trí thì cần bầu bổ sung. Rất nhiều viện sỹ đề nghị bầu đích danh Menđêlêep đồng thời cũng khẳng định: "Menđêlêep đủ tư cách có chân trong Viện Hàn lâm, đây là điều không ai có thể phủ nhận được".
Tuy nhiên, điều mà mọi người không thể ngờ đến là Menđêlêep lại không trúng tuyển vào Viện Hàn lâm khoa học Nga. Kẻ thống trị Viện Hàn lâm khoa học Nga chính là Chính phủ Sa hàng, chính phủ chuyên chế không chỉ biến khoa học tự nhiên như triết học trở thành nô tỳ mà còn muốn biến hoa học tự nhiên cũng trở thành công cụ đắc lực cho họ. Vì Menđêlêep đã từng tham gia biểu tình phản đối Sa hoàng cho nên bọn tay chân của Sa hoàng đã dùng thủ đoạn bỉ ổi để thao túng cuộc bầu chọn.
Menđêlêep cảm thấy bị tổn thương, ông hiểu rất rõ rằng đây không chỉ là tổn thương đối với cá nhân mình mà còn tổn thương đối với nhân dân Nga, đồng thời cũng là tổn thương đối với Chính phủ Sa hoàng vì rằng họ đã miệt thị một cách cực đoan đối với khoa học.
Sau khi tin Menđêlêep không trúng tuyển vào Viện Hàn lâm khoa học truyền đi, đã có rất nhiều nhà khoa học và một số tổ chức tiến bộ tỏ ý phản đối, họ bày tỏ sự ủng hộ đối với Menđêlêep, chỉ trích chính phủ Sa hoàng chuyên chế và xấu xa. Có người đã viết thư gửi Menđêlêep nói: "Thế lực phản độg đen tối không thể bưng bít được tiếng nói của các nhà khoa học". Gần như tất cả các trường đại học ở Nga đều chọn ông làm giáo sư danh dự của trường, rất nhiều Viện Hàn lâm khoa học nổi tiếng như: Viện Hàn lâm khoa học Luân Đôn, Pari,... mời ông làm viện sỹ danh dự, điều này thể hiện sự ủng hộ của giới khoa học trên thế giới đối với ông.
Menđêlêep cảm thấy yên lòng, ông nói: "Tôi hiểu sâu sắc rằng đây không chỉ là niềm vinh dự đối với tôi mà còn là niềm vinh dự đối với nhân dân Nga".
Menđêlêep không được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học, nhưng khoa học không bao giờ chịu phục tùng chính phủ chuyên chế, khoa học là thuộc về nhân dân, các nhà khoa học thuộc về nhân dân. Menđêlêep người không được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học khi bước lên bục giảng Đại học Pêtécbua, học sinh của ông đã đón ông bằng những tiếng vỗ tay vang dội, nó thể hiện sự kính trọng của họ đối với ông, tiếng hoan hô như tiếng sấm, đó là tình yêu của học sinh đối với ông - người giáo sư đáng kinh Menđêlêep.
Menđêlêep cảm thấy vô cùng vinh dự và trách nhiệm trước lịch sử cũng hết sức nặng nề. "Gieo trồng hạt, giống khoa học để nhân dân có mùa màng bội thu", đâylà câu nói mà Menđêlêep mãi mãi khắc cốt ghi xương.
"Khi hạt giống khoa học được gieo xuống đã nảy mầm, nó sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân dân"
Menđelêép
Đmitri Ivanôvích Menđêlêep (1834 - 1907): Menđêlêep là nhà hóa học và là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng nước Nga. Ông tốt nghiệp đại học năm 21 tuổi đã từng là giáo viên trung học, sau đó đến dạy học tại trường Đại học Pêtécbua chuyên ngành hóa học, ông đã lần lượt qua Pháp, Đức học tập nghiên cứu. Cống hiến lớn nhất của ông là nghiên cứu ra bảng tuần hoàn Menđêlêep, đây là một cống hiến xuyên thời đại đối với lĩnh vực phát triển hóa học của ông, người sau mệnh danh ông là "thần cửa của khoa học Nga" (door - god).
Cống hiến xuất sắc nhất của Menđêlêep là phát hiện ra quy luật biến hóa mang tính chu kỳ của các nguyên tố hóa học gọi tắt là quy luật tuần hoàn các nguyên tố.
Khi Menđêlêep viết "Nguyên lý hóa học", ông nghĩ đến lúc này trong số các nguyên tố đã phát hiện trên thế giới là 63 nguyên tố, giữa chúng nhất định có những quy luật biến hóa thống nhất, vì rằng tất cả các sự vật điều có liên quan với nhau. Để phát hiện quy luật này ông đã đăng ký 63 nguyên tố này vào 63 chiếc thẻ, trên thẻ ông viết tên, nguyên tử lượng, tính chất hóa học của nguyên tố. Ông dùng 63 chiếc thẻ mang tên 63 nguyên tố này xếp đi xếp lại trên bàn. Bỗng nhiên một hôm ông phát hiện ra rằng nếu xếp các nguyên tố này theo sự lớn nhỏ của nguyên tử lượng thì sẽ xuất hiện sự biến hóa mang tính liên tục rất kỳ lạ, nó giống như một bản nhạc kỳ diệu vậy. Menđêlêep không giấu nổi niềm vui, ông tin tưởng chắc chắn rằng loại quy luật này chứng tỏ quan hệ của vạn vật trên thế giới này là tất nhiên và có luật tuần hoàn của chúng.
Menđêlêep như đã có chìa khóa mở cánh cửa của mê cung đã phát hiện trên những bí mật của cả cung điện. Ông đã sắp xếp những nguyên tố thành một bảng tuần hoàn, trong đó có những nguyên tố vẫn phải để trống. Ông công bố tác phẩm của mình, kiên trì chờ đợi kết quả kiểm nghiệm của các nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới đối với quy luật tuần hoàn của các nguyên tố, nhưng suốt 4 năm không phát hiện thêm được nguyên tố mới nào.
Năm 1875 Viện Hàn lâm khoa học Pari nhận được thư của một nhà khoa học, trong thư nói ông đã tạo ra được một nguyên tố mới trong quặng kẽm trắng, ông gọi nguyên tố là "Gali". Tính chất của Gali giống như nhôm, nguyên tử lượng là 59,72; tỷ trọng là 4,7. Nghe được tin này Menđêlêep mắt sáng hẳn lên, theo phát hiện 4 năm trước đây của mình nguyên tố mới này cùng "nhóm của nhôm" đây là điều 4 năm trước ông đã dự đoán. Nhưng ông lại cảm thấy không yên tâm, theo cách tính của bảng tuần hoàn thì nguyên tử lượng của nhôm phải là khoảng 68, tỷ tọng phải là 5,9 - 6,0. Menđêlêep tin rằng mình đúng, ông lập tức viết thư cho Viện Hàn lâm khoa học Pari nói ý kiến của mình.
Bức thư được chuyển đến tay nhà khoa học đã công bố phát hiện ra Gali. Ông ấy hết sức ngạc nhiên, Menđêlêep chưa nhìn thấy mặt "Gali" mà dám nói biết được nguyên tử lượng và tỷ trọng của nó là bao nhiêu, cứ như là chuyện đùa? Nhưng vì thận trọng, nhà khoa học ấy đã tiến hành xác định lại một lần nữa những số liệu trên, kết quả vẫn không thay đổi.
Một thời gian sau, nhà khoa học người Pháp này lại nhận được thư của Menđêlêep, lời lẽ trong thư hết sức tự tin, hình như không phải là đang nói đến nguyên tố mới, mà là đang làm một bài toán: "4 + ( ) = 10". Nhưng là nhà khoa học ông không thể xem thường ý kiến của Menđêlêep. Ông lại tuyển Gali một lần nữa rồi xác định những chỉ số của nó, kết quả lần này làm ông ngạc nhiên bởi đúng như dự đoán của Menđêlêep: Tỷ trọng của Gali là 5,94; đây đúng là một sự trùng hợp đặc biệt không thể tưởng tượng được.
Sau khi lời dự đoán kỳ lạ này được chứng thực, cả giới hóa học kinh ngạc. Lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố học đã bị lãng quên nhiều năm, nay được mọi người coi trọng, một số nhà khoa học đã chân thành chúc mừng sự phát hiện tài ba của Menđêlêep. Bảng tuần hoàn nhanh chóng được dịch thành nhiều thứ tiếng và truyền bá đi khắp nơi trên trái đất. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học (còn gọi là bảng tuần hoàn Menđêlêep) trên 100 năm qua đã là chìa khóa dẫn đến việc phát minh nhiều nguyên tố hóa học mới.
Bốn năm sau, Thụy Điển phát hiện một loại nguyên tố mới khác, có người gọi nó là "Scanđi". Khi mọi người nghiên cứu sâu hơn một bước thì phát hiện ra rằng "Scanđi" chính là nguyên tố nằm trong "nhóm của Bo" mà Menđêlêep đã dự đoán. Mọi người phát hiện ra rằng lý luận về quy luật tuần hoàn của các nguyên tố không chỉ có thể dự kiến vị trí cho các nguyên tố chưa tìm ra "mà còn có thế biết trước được tính chất quan trọng của chúng".
"Nguyên lý hóa học" của Menđêlêep đã được đánh giá rất cao, trở thành bộ sách giáo khoa kinh điển được thế giới công nhận. Có người đánh giá Menđêlêep như sau: "Trong lịch sử hóa học, ông dùng một chủ đề đơn giản mà đã gọi ra được cả thế giới".
Menđêlêep: Dũng cảm bay vào không trung
Khi tuổi đã ngoài 50 Menđêlêep vẫn giữ được nhiệt huyết đối với công việc khám phá khoa học, ông muốn được bay lên không trung để nghiên cứu không khí lớp trên của tầng khí quyển.
Menđêlêep quyết định sẽ bay vào không trung vào ngày 19 tháng 08 năm 1887, vì ngày đó là ngày Nhật thực, một cơ hội hiếm có. Mà bay vào không trung phải chuẩn bị rất nhiều việc, khó khăn gặp phải đầu tiên là không có tiền để làm quả khí cầu. Ông tự tay thiết kế, vẽ, chế tạo lấy quả khí cầu và một dụng cụ đo khí áp thật nhạy. Phía dưới quả khinh khí cầu treo một cái giỏ lớn cho hai người ngồi. Ông Cocơrin chuyên gia hàng không điều khiển khí cầu, Menđêlêep tiến hành quan sát và nghiên cứu.
Cuối cùng thì ngày đó cũng đến. Khi mọi công việc đã chuẩn bị xong thì phát hiện ra lực nâng của khí cầu nhỏ không nâng nổi hai người lên, Menđêlêep quyết định bay một mình. Bạn bè đều khuyên ông: "Bay một mình rất nguy hiểm, đợi lần sau chuẩn bị tốt rồi sẽ tính". Menđêlêep nói: "Tôi không còn thời giờ nữa, không thể bỏ lỡ thời cơ. Mọi người có nhớ không? Nhật thực toàn phần lần trước cách đây 19 năm, nhà thiên văn học người Pháp phát hiện ra cái gì? Khi dùng kính phân tích ánh sáng nhìn thẳng lên mặt trời Nhật thực, thấy xuất hiện một vạch sáng màu vàng. Về sau mọi người đều đoán đó là nguyên tố mới, họ gọi đó là Hêli. Đến giờ tôi vẫn nghi ngờ là có tồn tại nguyên tố này không? Nếu không có lần quan sát này thì nghi ngờ của tôi không có gì để nói. Nhật thực không mấy chốc đã có, tôi không thể bỏ lỡ thời cơ được".
Co cơ rin nói với ông: "Thế thì để tôi đi, anh chưa bao giờ điều khiển khí cầu mà một mình bay thì thật nguy hiểm".
Menđêlêep cương quyết đòi đi, ông biết có rất nhiều người đang chờ chuyến bay này của ông. Menđêlêep sùng bái nhà hóa học Đantơn, cuộc đời khoa học của ông Đantơn kết thúc bằng một lần quan sát thực nghiệm khí tượng. Ông cười và nói với mọi người rằng: "Không phải lo gì cho tôi, nếu không may có chuyện gì xảy ra với tôi lúc đang bay thì tin rằng ngài Đantơn sẽ đón tôi".
Khí cầu từ từ bay lên không trung, càng bay càng cao. Ông ngồi trong giỏ treo tập trung quan sát Nhật thực, quan sát hiện tượng khí tượng. Ông nhìn thấy mặt trời đang bị nuốt đi, ông chăm chú nhìn quan dụng cụ trắc nghiệm.
Bỗng nhiên bộ phận thao tác điều khiển khí cầu có sự cố, khí cầu lúc nào cũng ở trạng thái rơi xuống. Menđêlêep quan sát tình hình sự cố, tính cách sửa chữa, rồi ông quyết định trèo lên dây treo của khí cầu.
Những người đứng dưới mặt đất nhìn Menđêlêep, từ giỏ trèo lên dây treo, ai cũng thót tim. May sao ông xử lý sự cố thành công và đã trở về vị trí. Khí cầu từ từ hạ xuống, khi Menđêlêep rời khỏi giỏ treo mọi người đều reo mừng.
Do thành công trong chuyến bay này, Học viện Hàng không khí tượng Pháp đã tặng Menđêlêep Kỷ niệm chương.
Menđêlêep: Tôi thuộc về nhân dân
Menđêlêep đã trở thành nhân vật nổi tiếng ở Nga; mỗi khi ra đường thường có rất nhiều người ngưỡng mộ ông đi theo sau. Ông là người có tính cách hào phóng, thẳng thắn, chân thành, không câu nệ các chi tiết vụn vặt, ngay cả với người giúp việc cũng thân tình cởi mở. Menđêlêep là nhiềm kiêu hãnh của giới khoa học Nga, cũng là người thầy được học sinh yêu quý nhất ở trường Đại học Saint Petersburg.
Bài giảng của Menđêlêep sinh động, hấp dẫn, hội trường ông giảng bài luôn chật cứng người, thậm chí ngay cả các phòng học xung quanh cũng kín người ngồi nghe. Bài ông giảng nội dung rất rộng. giảng giải kỹ càng, lại thêm kiến thức văn học sâu rộng, ngôn từ xúc tích nên có sức thu hút rất lớn. Mọi người đều nghĩ "Ông giống một nhà diễn thuyết tài ba".
Nhưng chính nhà khoa học được nhiều người ngưỡng mộ như vậy lại bị chính phủ chuyên chế Sa hoàng bài xích.
Một viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Nga mất, theo điều lệ của Viện Hàn lâm khoa học Nga, sau khi khuyết vị trí thì cần bầu bổ sung. Rất nhiều viện sỹ đề nghị bầu đích danh Menđêlêep đồng thời cũng khẳng định: "Menđêlêep đủ tư cách có chân trong Viện Hàn lâm, đây là điều không ai có thể phủ nhận được".
Tuy nhiên, điều mà mọi người không thể ngờ đến là Menđêlêep lại không trúng tuyển vào Viện Hàn lâm khoa học Nga. Kẻ thống trị Viện Hàn lâm khoa học Nga chính là Chính phủ Sa hàng, chính phủ chuyên chế không chỉ biến khoa học tự nhiên như triết học trở thành nô tỳ mà còn muốn biến hoa học tự nhiên cũng trở thành công cụ đắc lực cho họ. Vì Menđêlêep đã từng tham gia biểu tình phản đối Sa hoàng cho nên bọn tay chân của Sa hoàng đã dùng thủ đoạn bỉ ổi để thao túng cuộc bầu chọn.
Menđêlêep cảm thấy bị tổn thương, ông hiểu rất rõ rằng đây không chỉ là tổn thương đối với cá nhân mình mà còn tổn thương đối với nhân dân Nga, đồng thời cũng là tổn thương đối với Chính phủ Sa hoàng vì rằng họ đã miệt thị một cách cực đoan đối với khoa học.
Sau khi tin Menđêlêep không trúng tuyển vào Viện Hàn lâm khoa học truyền đi, đã có rất nhiều nhà khoa học và một số tổ chức tiến bộ tỏ ý phản đối, họ bày tỏ sự ủng hộ đối với Menđêlêep, chỉ trích chính phủ Sa hoàng chuyên chế và xấu xa. Có người đã viết thư gửi Menđêlêep nói: "Thế lực phản độg đen tối không thể bưng bít được tiếng nói của các nhà khoa học". Gần như tất cả các trường đại học ở Nga đều chọn ông làm giáo sư danh dự của trường, rất nhiều Viện Hàn lâm khoa học nổi tiếng như: Viện Hàn lâm khoa học Luân Đôn, Pari,... mời ông làm viện sỹ danh dự, điều này thể hiện sự ủng hộ của giới khoa học trên thế giới đối với ông.
Menđêlêep cảm thấy yên lòng, ông nói: "Tôi hiểu sâu sắc rằng đây không chỉ là niềm vinh dự đối với tôi mà còn là niềm vinh dự đối với nhân dân Nga".
Menđêlêep không được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học, nhưng khoa học không bao giờ chịu phục tùng chính phủ chuyên chế, khoa học là thuộc về nhân dân, các nhà khoa học thuộc về nhân dân. Menđêlêep người không được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học khi bước lên bục giảng Đại học Pêtécbua, học sinh của ông đã đón ông bằng những tiếng vỗ tay vang dội, nó thể hiện sự kính trọng của họ đối với ông, tiếng hoan hô như tiếng sấm, đó là tình yêu của học sinh đối với ông - người giáo sư đáng kinh Menđêlêep.
Menđêlêep cảm thấy vô cùng vinh dự và trách nhiệm trước lịch sử cũng hết sức nặng nề. "Gieo trồng hạt, giống khoa học để nhân dân có mùa màng bội thu", đâylà câu nói mà Menđêlêep mãi mãi khắc cốt ghi xương.
"Khi hạt giống khoa học được gieo xuống đã nảy mầm, nó sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân dân"
Menđelêép

Sự ngưỡng mộ chung đến như vậyđồi với thiên tài của Einstein có vẻlà một điều phi thường. Dĩ nhiên người trí thức biết được giá trị của ông. Đã có lần một nhà văn khoa học đã phê phán như sau: "Sự rủi ro luôn luôn chống lại bất cứ ai có năng lực làm công tác trong lãnh vực lý thuyết trừu tượng mà Einstein đang làm. Nhưng ông đã khắc phục được chúng tôi đôi ba lần trong đời ông rồi. Nếu ai đó có quyền hy vọng rằng mình có thể giải quyết được những điều có vẻ không thể giải quyết được đối với hầu hết các nhà vật lý, thì ông là người có quyền đó. Ông quả có óc tưởng tượng và sáng tạo. Và ông cũng cứng đầu không kém khi theo đuổi một ý tưởng mà ông cho rằng ý tưởng đó là đúng, dù cho nó có vẻ kỳ lạvới chúng ta đến đâu đi nữa. Nếu ông không có những đức tính này thì ông đã không tài nào làm được những gì ông đã làm cho đến giờ, hay có được cơ may thành công trong những gì ông đang cố gắng làm.
Einstein có ảnh hưởng đối với khoa học và lịch sử mà chỉ một vài người đã từng đạt được mà thôi. Khoa trưởng của một Đại học Mỹ phê bình vào năm 1929 rằng "Einstein đã tạo ra một quan điểm mới, một cái nhìn mới về vũ trụ. Có cần phải đến một vài thế hệ qua đi trước khi một đầu óc trung bình nắm được hình dạng của thời gian và không gian…, nhưng thậm chí cả những người bình thường bây giờ cũng hiểu ra rằng vũ trụ thì rộng lớn hơn và đầy phiêu lưu hơn người ta tưởng trước đây."
Bốn năm sau, Adolph Hitler lên nắm quyền cai trị nước Đức. Hắn và bọn quốc xã của hắn không thích những nhà tri thức. Chúng cũng thù ghét người Do Thái và bắt đầu tấn công họ. Chúng chẳng kính trọng ai thâm chí đối với cả Albert Einstein, người chỉ muốn suy tưởng về nhưng vấn đề vượt thời gian, không gian và chính trị. Ông đã bị khai trừ khỏi Viện hàn Lâm Khoa học nhà ông bị lục soát để tìm kiếm vũ khí, ông bị mất việc làm giáo sư, tất cả tài sản của ông (kể cả ngôi nhà đã được thành phố Berlin tặng) bị tịch thu và sau cùng quyền công dân Đức của ông cũhg bị tước đoạt. Ông trở thành người vô Tổ quốc.
Trốn khỏi nước Đức, Einstein thọat nhiên qua Pháp, rồi Bỉ và kế đó là Anh quốc. Tại đây ông được mời qua Mỹ. Viện nghiên cứu cao cấp tại Princeton, bang New Jersey đề nghị với ông chức vụ giáo sư trọn đời. Ong chấp nhân nhưng chỉ đòi hỏi số lương nhỏ đến nỗi để duy trì các tiêu chuẩn của chức vụ ấy, Viện đã phải tăng lương lên.
Cách cư xử như vậy là tiêu biểu cho Einsstein. Ông ít quan tâm đến tiền bạc, dù rằng ông đã có thể cực kỳ giàu có rồi. Có lần ông đã từ chối đề nghị trả công cho ông 1000 đôla một phút nói chuyện qua đài phát thanh. Vào một dịp khác, người ta thấy ông đang dùng một tấm chi phiếu 1500 đôla của cơ quan Rockefeller làm vật đánh dấu các trang sách. Và rồi ông làm mất cuốn sách ấy!
Vào năm 1940, Einstein trở thành công dân Mỹ. Khi được phỏng vấn về quê hương mới của mình, ông kể cho các phóng viên nghe: "Cách đây 7 năm khi người ta hỏi tôi lý do tôi rời khỏi nước Đức, tôi đã tuyên bố: "Cho đến bao lâu tôi còn có được quyền lựa chọn, thì tôi sẽ chỉ sống ở trong một nước mà quyền tự do chính trị, sự dung nạp lẫn nhau và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được coi là luật lệ. Tự do chính trị bao hàm quyền tự do biểu lộ chính kiến của mình bằng ngôn từ và bằng văn bản, và một sự tôn trọng và dung nạp đối với bất cứ ý kiến cá nhân". Einstein đã sống nốt quãng đời còn lại của ông ở Mỹ.
Giống như nhiều nhà toán học, Einstein yêu mến âm nhạc, và ông là người chơi vĩ cầm trên mức trung bình. Ông sống thầm lặng ở Princeton, làm việc tại Viện nghiên cứu cao cấp, tự giải trí với cây vĩ cầm trong căn nhà đơn giản của ông. Thường có khách đến chơi như cô bé 12 tuổi, mà trong một thời gian đã có thói quen ghé thăm ông trên đường từ trường về nhà. Sau hết là bà mẹ đầy bối rối của cô bé, người đã găp Tiến sĩ Eisntein, đã hỏi ông và con gái bà ta đã nói chuyện về những gì. Ông Tiến sĩ mỉm cười, giải thích: "Ồ cháu mang bánh đến cho tôi, còn tôi thì làm bài tập số học giùm cháu đấy."
Vào năm 1955, cuộc đời của Einstein chấm dứt một cách thanh thản vào tuổi 76. Nhưng mọi mọi người chúng ta thì hiện sống trong một thế giơi đã thay đổi vì con người thiên tài đơn giản này đã cống hiến sự thông minh và trái tim cuả ông cho đồng loại của mình. Ông đã sống không phải để chinh phục hay hủy diệt , mà là để tìm hiểu.
Einstein có ảnh hưởng đối với khoa học và lịch sử mà chỉ một vài người đã từng đạt được mà thôi. Khoa trưởng của một Đại học Mỹ phê bình vào năm 1929 rằng "Einstein đã tạo ra một quan điểm mới, một cái nhìn mới về vũ trụ. Có cần phải đến một vài thế hệ qua đi trước khi một đầu óc trung bình nắm được hình dạng của thời gian và không gian…, nhưng thậm chí cả những người bình thường bây giờ cũng hiểu ra rằng vũ trụ thì rộng lớn hơn và đầy phiêu lưu hơn người ta tưởng trước đây."
Bốn năm sau, Adolph Hitler lên nắm quyền cai trị nước Đức. Hắn và bọn quốc xã của hắn không thích những nhà tri thức. Chúng cũng thù ghét người Do Thái và bắt đầu tấn công họ. Chúng chẳng kính trọng ai thâm chí đối với cả Albert Einstein, người chỉ muốn suy tưởng về nhưng vấn đề vượt thời gian, không gian và chính trị. Ông đã bị khai trừ khỏi Viện hàn Lâm Khoa học nhà ông bị lục soát để tìm kiếm vũ khí, ông bị mất việc làm giáo sư, tất cả tài sản của ông (kể cả ngôi nhà đã được thành phố Berlin tặng) bị tịch thu và sau cùng quyền công dân Đức của ông cũhg bị tước đoạt. Ông trở thành người vô Tổ quốc.
Trốn khỏi nước Đức, Einstein thọat nhiên qua Pháp, rồi Bỉ và kế đó là Anh quốc. Tại đây ông được mời qua Mỹ. Viện nghiên cứu cao cấp tại Princeton, bang New Jersey đề nghị với ông chức vụ giáo sư trọn đời. Ong chấp nhân nhưng chỉ đòi hỏi số lương nhỏ đến nỗi để duy trì các tiêu chuẩn của chức vụ ấy, Viện đã phải tăng lương lên.
Cách cư xử như vậy là tiêu biểu cho Einsstein. Ông ít quan tâm đến tiền bạc, dù rằng ông đã có thể cực kỳ giàu có rồi. Có lần ông đã từ chối đề nghị trả công cho ông 1000 đôla một phút nói chuyện qua đài phát thanh. Vào một dịp khác, người ta thấy ông đang dùng một tấm chi phiếu 1500 đôla của cơ quan Rockefeller làm vật đánh dấu các trang sách. Và rồi ông làm mất cuốn sách ấy!
Vào năm 1940, Einstein trở thành công dân Mỹ. Khi được phỏng vấn về quê hương mới của mình, ông kể cho các phóng viên nghe: "Cách đây 7 năm khi người ta hỏi tôi lý do tôi rời khỏi nước Đức, tôi đã tuyên bố: "Cho đến bao lâu tôi còn có được quyền lựa chọn, thì tôi sẽ chỉ sống ở trong một nước mà quyền tự do chính trị, sự dung nạp lẫn nhau và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được coi là luật lệ. Tự do chính trị bao hàm quyền tự do biểu lộ chính kiến của mình bằng ngôn từ và bằng văn bản, và một sự tôn trọng và dung nạp đối với bất cứ ý kiến cá nhân". Einstein đã sống nốt quãng đời còn lại của ông ở Mỹ.
Giống như nhiều nhà toán học, Einstein yêu mến âm nhạc, và ông là người chơi vĩ cầm trên mức trung bình. Ông sống thầm lặng ở Princeton, làm việc tại Viện nghiên cứu cao cấp, tự giải trí với cây vĩ cầm trong căn nhà đơn giản của ông. Thường có khách đến chơi như cô bé 12 tuổi, mà trong một thời gian đã có thói quen ghé thăm ông trên đường từ trường về nhà. Sau hết là bà mẹ đầy bối rối của cô bé, người đã găp Tiến sĩ Eisntein, đã hỏi ông và con gái bà ta đã nói chuyện về những gì. Ông Tiến sĩ mỉm cười, giải thích: "Ồ cháu mang bánh đến cho tôi, còn tôi thì làm bài tập số học giùm cháu đấy."
Vào năm 1955, cuộc đời của Einstein chấm dứt một cách thanh thản vào tuổi 76. Nhưng mọi mọi người chúng ta thì hiện sống trong một thế giơi đã thay đổi vì con người thiên tài đơn giản này đã cống hiến sự thông minh và trái tim cuả ông cho đồng loại của mình. Ông đã sống không phải để chinh phục hay hủy diệt , mà là để tìm hiểu.
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi lĩnh vực Câu hỏi khác
Rao vặt Siêu Vip