
Ngoài chuột Hamster còn có loại chuột cảnh nào khác nữa ko nhỉ?

Thế giới có đến ... 1.082 loài chuột
Trên một đảo ở Thái Bình Dương, một con chuột đồng lớn trèo lên cây để tìm thức ăn. Những sợi ria dài của nó ngọ nguậy, mắt và tai chăm chú cảnh giới để phát hiện nguy hiểm. Chợt nghe có tiếng di chuyển của một động vật nào đó ở những cây bụi thấp hơn, con chuột đồng lớn thận trọng quan sát. Hóa ra là một con chuột khác to hơn, lông nâu và bạo dạn hơn: Chuột Na Uy. Bỗng nhiên có một con mèo không hiểu từ đâu nhảy ra, (chuột Na Uy nhanh chân hơn và chạy thoát, còn chuột Galapagos kém may mắn nên đã nằm gọn dưới vuốt chú mèo...
Có 1.001 loài chuột
Tất cả chuột lớn và chuột nhắt trên thế giới đều thuộc bộ gặm nhấm và nằm trong cùng một họ chuột, cùng với chuột đồng, chuột Lemming, chuột túi má và chuột Gerbil. Gộp chung lại, họ chuột gom 1.082 loài, thuộc 241 chi, chiếm 25% trong tổng số các loài động vật có vú.
Nhóm chuột tân thế giới là 3 trong số 160 loài chuột lớn ở Trung Mỹ và Nam Mỹ: giống chuột Leo Nam Mỹ (chi Rhipidomys) hoạt động ban đêm, ăn hạt, nấm và côn trùng; giống chuột hoàng hôn Trung Mỹ (Nyctomys sumichrasti) cũng hoạt động ban đêm, ăn quả và rất thích sống trên cây, thậm chí làm tổ trên cây; chuột Leo Trung Mỹ (chi Tylomys) cũng hoạt động ban đêm, thích leo lên những cây cao dọc theo bờ sông và bờ hồ.
Chuột khổng lồ
Loài chuột lớn hiện diện trên khắp thế giới, ngoại trừ những nơi có khí hậu quá lạnh như núi cao hoặc ở hai cực trái đất. Một số loài rất quen thuộc và phân bố rộng vì chúng sống bên cạnh con người, trong hoặc gần các tòa nhà, bãi rác, hoặc bất cứ nơi đâu có thể làm nơi trú ẩn và có thức ăn. Trong số này gồm chuột Na Uy (Rattus norvegicus) còn gọi chuột nâu hay chuột cống, và chuột nóc (Rattus rattus) còn gọi chuột đen hay chuột tàu biển.
Hàng trăm loài chuột khổng lồ thích sống xa con người trong núi đá, hoang mạc, rừng rậm, đồng cỏ, vùng nhiệt đới. Hiện nay có vài loài chuột hiền đến mức người ta chỉ được biết đến tên qua các mẫu vật lưu giữ trong viện bảo tàng, hoặc một vài cá thể bắt được trong thiên nhiên hoang dã. Theo các nhà nghiên cứu động vật, hiện nay trên thế giới còn khoảng hai loài chuột khổng lồ sinh sống ở các đảo vùng biển Caribbea dường như đã bị tuyệt chủng. Nhiều loài chuột lớn đang bị đe dọa do con người mang các loại chuột khác đến, hoặc do mèo, chó và những động vật khác tiêu diệt đến tận gốc...
500 loài chuột muridae
Loài chuột này thường hoạt động ban đêm, sống đơn độc. Chúng sinh sống ở bất cứ môi trường nào trên cạn bao gồm hoang mạc, thảo nguyên, vùng rừng và rừng nhiệt đới, ngoại trừ các dãy núi cao. Loài chuột này thích ăn các hạt, chồi, lá và các thức ăn khác từ thực vật. Ngoài ra chúng cũng thích ăn cả côn trùng và những động vật nhỏ khác. Chúng thường đẻ mỗi lứa 3 - 7 con sau khi mang thai 20 - 50 ngày, trong điều kiện thích hợp, mỗi con 3 - 4 tuần đẻ một lứa. Trọng lượng nhỏ nhất của chúng nặng khoảng 2 kg. Màu lông thay đổi từ màu kem hoặc nâu vàng nhạt qua đỏ, nâu và xám đến đen; tai, mũi, bàn chân và đuôi thường có màu xám hồng, một số loài có sọc trên lưng. Tuổi thọ của loài chuột từ vài tháng tới 2 hoặc 3 năm, đặc biệt là đối với các loài chuột khổng lồ.
Chuột lớn nhất thế giới...
Chuột Na Uy là chuột lớn điển hình. Nó có thể dài tới 25 cm, lông thô màu xám nâu, mõm dài, mắt lộ, tai nhỏ, bốn chi khỏe với các vuốt nhọn, đuôi không có lông và dài tới 20 cm.
Cũng như chuột nhắt, chuột khổng lồ có bốn răng cửa sắc, hai ở hàm trên và hai ở hàm dưới; ngoài ra còn có 12 răng nghiêng bên má, mỗi bên 8 răng ở hàm trên và 3 răng ở hàm dưới. Kiểu răng gặm nhấm này ban đầu được sinh ra để ăn hạt và những thức ăn khác từ thực vật nhưng nhiều loài chuột khổng lồ hiện nay có thể ăn bất cứ những gì mà chúng tìm được. Giống chuột Na Uy không chỉ ăn thực vật, mà cả động vật sống hoặc đã chết. Chế độ ăn đa dạng như vậy là một lý do tại sao loài này phát tán rộng và dân số ngày càng đông đúc...
Một lý do khác để giống chuột khổng lồ này phát triển mạnh là tốc độ sinh sản của nó. Cũng như nhiều loài chuột khác. Khi nơi trú ngụ được bảo đảm và thức ăn dồi dào, chuột cái có thể đẻ nhiều lứa trong năm. Nó sống trong hang và làm tổ chăm sóc con bằng cỏ, rơm, các mẫu gỗ vụn, giẻ rách và một số vật liệu khác. Tính trung bình, chuột đẻ mỗi lứa khoảng 7 con, nhưng đôi khi có lứa 10 con hoặc hơn. Như vậy, một con cái có thể nuôi nhiều hơn 50 con non trong một năm nếu có điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, có tới 50% trong số này sẽ chết do chó, mèo, rắn hoặc do thiếu thức ăn trước khi chúng đạt đến tuổi sinh sản (khoảng 12 tuần tuổi). Ngoài ra, 95% chuột con khi trưởng thành cũng không sống quá một năm.
Chuột Na Uy ban đầu có nguồn gốc từ vùng biển Caspia. Nó bắt đầu lan rộng sang phía Tây vào thế kỷ 11, đến đầu thế kỷ 18, nó đã đến Anh. Loài chuột nay bơi lội giỏi. Khi ở trong nuớc, người ta thường nhầm nó với chuột đồng nước.
Di dân theo đường biển
Thêm một loài gặm nhấm nữa là chuột nóc, hay còn gọi là chuột đen. Tuy có tên gọi chuột đen, nhưng không phải lúc nào chúng cũng có màu đen, một số cá thể có lông nâu, xám, hoặc thậm chí màu kem bẩn. Loài này tuy nhỏ hơn, nhưng đặc biệt tai lớn và đuôi dài hơn cơ thể của nó so với chuột khổng lồ Na Uy.
Chuột nóc có nguồn gốc từ Ấn Độ. Cũng như chuột Na Uy, chuột nóc từ xưa đã biết vượt biên theo các chuyến tàu viễn dương chở hàng hóa sang các nước Tây Âu từ thế kỷ 11. Vốn là động vật nhiệt đới, nó có xu hướng sống gần những nơi ấm và kín mưa gió. Khi chuột Na Uy to hơn và bạo dạn hơn xuất hiện, chuột đen trở nên ít phổ biến hơn.
Ngày nay, cả hai loài này vẫn sống và sinh trưởng ở nhiều nước trên thế giới. Chuột nóc thường phổ biến hơn ở các vùng nhiệt đới, các làng mạc và thị trấn đông đúc. Chuột Na Uy có số lượng nhiều hơn ở các vùng ôn đới, và cả những thành phố cảng ở vùng nhiệt đới.
Chuột khổng lồ xưa và nay
Chuột Na Uy và chuột nóc thuộc về nhóm chuột cổ xưa, trong 406 loài thì có khoảng 200 - 250 loài được coi là chuột lớn. Chúng cư trú trên khắp châu Âu, châu Phi, Trung Á, Nam Á và châu Đại Dương. Một số loài chủ yếu sống trong hang, một số loài khác dành phần lớn thời gian sống trên cây. Thức ăn của chúng chủ yếu là thực vật như hạt, chồi, quảy và lá.
Có nhiều loài chuột lớn trong các vùng nóng, ẩm ướt ở châu Phi, châu Á và ở châu Âu hoặc ở các vùng lạnh và khô. Cũng có nhiều loài chuột lớn trên các đảo Đông Nam Á. Chỉ riêng ở Philippines đã có 30 loài chuột lớn không tìm thấy nơi nào khác, trong đó chuột đàn đuôi thon (Phloeomys cumingi) - là loài lớn nhất - và hai loài chuột lớn khác ở New Guinea có 6 loài khá lớn.
Trong 30 triệu năm qua, nhóm chuột tân thế giới (Hesperomyinae) đã tiến hóa một cách độc lập so với họ hàng của chúng. Ngày nay có 366 loài chuột ""mới", trong đó có 160 loài được gọi là chuột lớn. Cả hai nhóm chuột này cũng cho thấy sự giống nhau về phạm vi thích nghi. Ở các loài chuột leo, đuôi đã trở thành công cụ giữ thăng bằng. Chuột sống trên cây, các ngón của bốn chi có khả năng đối điện với nhau, cho phép con vật cầm nắm được những cành mỏng.
Các loài chuột khổng lồ khác
Còn khoảng tám nhóm chuột khổng lồ khác gồm chuột đầm lầy hâu Phi nay còn gọi là chuột Vlei (chi Otomys) sống ở Trung Phi và Nam Phi, đặc biệt là các vùng đất cao. Chúng trông giống chuột đồng, thích sống nơi ẩm ướt, ăn cỏ và những thực vật khác. Ở Đông Nam, và châu Đại Dương có khoảng 20 loài thuộc chuột nước. Giống chuột này thích cuộc sống ở đầm lầy và sông, rạch. To lớn nhất trong các loài chuột nước này là chuột châu Đại Dương (Hydromys chrysogaster), nặng hơn 1 kg. Hai màng chân sau của nó có thể dùng để bơi; ban ngày chuột đi săn bắt cá, ếch, cua, ốc và côn trùng. Nhiều người thường nhầm nó với loài thú mỏ vịt chuyên săn bắt mồi dưới nước. Một loài khác là chuột Zokor (chi Myypspalax) chuyên đào và sống trong hang. Đây là chuột khổng lồ giống chuột đồng, chuyên sống trên đồng cỏ và các vùng rừng ở vùng Trung Á, Trung Quốc. Nó có mắt và tai nhỏ, các vuốt rất to để đào. Chuột thích ăn rễ, củ, hạt. Chuột Zokor thường dự trữ kho lương thực lớn trong hang để dùng dần vào mùa đông lạnh giá.
Chuột hốc lớn mù (chi Spalax) ở châu Phi, Trung Đông và Tây Á dài tới 35 cm, so với đa số các loài chuột lớn là khoảng 20 cm. Chuột hốc lớn mù có mắt nằm khuất dưới da, không có tai ngoài và không đuôi. Các răng cửa chìa ra ngay cả khi nó ngậm mõm, các răng này được dùng để đào vào đất khô, trên vùng có cây bụi. Nó ăn rễ, củ và những thực vật khác, ngoài ra cách sống của nó rất giống với chuột chũi. Các đường hầm của nó có thể dài tới 350 cm, thậm chí nó đùn lên các mô đất như của chuột chũi. Ở một số vùng trồng hoa màu, nó là vật gây hại cho con người...
Việt Báo

Chuột - dưới mắt nhà khoa học |
Người Việt Nam ta, ai cũng biết đến chuột! Là người làm công tác nghiên cứu y học, tôi xin chia sẻ cùng bạn đọc lời của một tác giả đã viết về chuột như sau: “Thêm một chút hiểu biết loài chuột thì cũng tốt cho tâm hồn và cũng tốt cho những ai tôn vinh loài chuột, và vì vậy chúng ta đang đọc đây… Loài chuột là những thứ khác với loài người”. Dòng giống nhà chuột
Chúng thành công cao trong tiến hoá. Loài gặm nhấm chiếm gần một nửa số lượng của tất cả các động vật có vú. Để dễ hình dung, có một điều tra như thế này: Ở Bắc Mỹ có khoảng 250 triệu người sống, cũng ở đó có vào khoảng chục tỷ động vật gặm nhấm sinh sống, thậm chí có thể lên đến hàng ngàn tỷ con. Cũng tương tự về sự thật này trên khắp các lục địa. Chuột có thể sống bất kỳ chỗ nào được coi có một thể sinh thái, dù rất khắc nghiệt. Chuột (rodentia) chia thành khoảng 35 họ (families), mỗi họ có khoảng 350 loài (genera). Trong những loài này có cả chuột nhắt (mice) và chuột cống (rat). Tổ tiên của chuột nhà là thành viên của họ Meridae (Meridae family). Họ Meridae chia thành 100 loài, là họ động vật có vú đông đảo nhất trái đất. Con chuột nhắt trong nhà chúng ta có tên loài theo tiếng Latin là “Mus usculus”; “Mus” có nghĩa là “Mouse-chuột”, và “Musculus” có nghiã là “con nhuột nhỏ” ta gọi là “chuột nhắt”. Tiếng Anh, Mouse: con chuột; Mice: nhiều con chuột. Chuột có nhiều nhánh nữa mà chuột nhà và chuột thí nghiệm nằm trong số nhánh này. Họ hàng gần của chuột nhà và chuột thí nghiệm là chuột đất vàng (hamsters), chuột nhảy (girbils), chuột lang (Guinea pigs), sóc (chinchillas), chồn, chuột túi và nhiều loại gặm nhấm khác. Thỏ không thuộc loại gặm nhấm. Xã hội chuột
Màu lông chuột hoang phổ biến có màu ghi xám ngoài tự nhiên, còn có màu đen, nâu, màu vàng. Chuột nuôi thuần dưỡng có khoảng 500 màu lông khác nhau. Chuột cảnh là những con chuột đã chọn lọc, không mang bệnh, chúng mong manh, khi ra ngoài chúng sẽ bị các con khác xung quanh như mèo, chim… bắt ngay. Mắt của chuột không tinh lắm, nhưng chúng rất nhạy với mùi. Ban ngày chuột cũng rất lanh lợi, mặc dù chúng thường hoạt động về đêm, đó là chiến lược để sống sót. Ngay cả với chiến lược này thì hàng triệu con chuột vẫn là mồi của nhiều loài thú săn khác, trong lưới thức ăn tự nhiên, ngày cũng như đêm. Người ta cho rằng chuột không phân biệt được màu sắc mà chỉ có 2 màu đen và trắng. Ria chuột thường dài và rất nhạy cảm với các rung động trong không khí. Vì thế chuột có thể phát hiện các thứ xung quanh nó. Một số lông cũng nhạy cảm với các rung động. Tổ chức xã hội của chuột trong tự nhiên theo kiều nguyên tắc “phân tán” để tồn tại. Với cách thức này hàng ngàn con chuột chia thành từng bầy, khi bị tấn công, chúng tản ra nhiều hướng, và con này sẽ là nạn nhân mà con kia sẽ thoát. Trong các bầy đàn này, là nhiều nhóm gia đình riêng của chuột, sẽ có một con đực hoặc một con cái đầu đàn với các con đực cái và các con con. Con cái đẻ một năm nhiều lứa, nhiều con một lứa. Con đực có khả năng truyền giống với rất nhiều con cái trong một ngày. Khi số lượng bầy đông lên, những con đực trẻ sẽ đánh nhau và cùng các con cái chia bầy. Một bầy nhỏ mới bắt đầu. Có một hệ thống tôn ti thứ bậc phân biệt giữa các gia đình và các nhóm chuột. Cách tổ chức này là sự thiết yếu giúp tạo nên thành công của nhóm trong thế giới động vật bao gồm cả loài người. Vài dòng lịch sử về chuột nuôiNgười ta không biết chắc chắn con người bắt đầu nuôi chuột thành vật cưng từ khi nào, nhưng hầu như mọi người đều tin rằng người Trung Quốc là những người đầu tiên nuôi chúng. Người ta thấy có những bản ghi chép về giống chuột đốm và chuột trắng ở Trung Quốc từ 1100 năm trước công nguyên. Chuột nhắt trắng cũng được các nhà viết sử thời Hy Lạp và La Mã nhắc đến. Vào những năm 1700, đã có chuột nuôi, buôn bán làm vật cảnh ở Trung Quốc, Nhật Bản và châu Âu. Vào thời Nữ hoàng Anh Victorya, đã có giải thưởng cho chuột cảnh “fancy”. Năm 1895, Walter Maxey khởi xướng, người Anh sáng lập ra “Câu lạc bộ Chuột quốc gia”. Đến thế kỷ XX thì đã có rất nhiều con chuột cảnh có màu lông khác nhau do lai tạo đột biến. Vào thời kỳ này, Học thuyết di truyền của Gregor Mendel người Hà Lan đã tác động mạnh lên giới khoa học, chuột nuôi đã được chọn là động vật thí nghiệm nghiên cứu di truyền. Năm 1902, chuột là động vật có vú đầu tiên dùng để chứng minh Định luật Mendel. Người ta cũng nhanh chóng nhận ra cần phải có dòng chuột nuôi thuần chủng để nghiên cứu. Các chương trình lai tạo các giống chuột đã được thực hiện tạo ra các chủng chuột dùng trong các mô hình nghiên cứu khác nhau phục vụ các nghiên cứu sinh y học. Một báo cáo năm 1915 của Haldane đã dẫn đến đặt vấn đề về bản đồ di truyền của chuột. Việc này tiến triển rất chậm cho đến mãi 50 năm sau. Những năm đầu thập niên 1980, nhiễm sắc thể chuột được đưa ra với bản đồ của 7 nhiễm sắc thể 45 loci. Đột phá lớn nhất trong bản đồ gene chuột là triển khai kỹ thuật tái tổ hợp DNA và trình tự DNA biểu hiện kiểu hình trong các phòng thí nghiệm. Khi dự án giải trình tự nhiễm sắc thể người được tiến hành vào năm 1990 thì cùng lúc nhiễm sắc thể của 5 loài trong đó có chuột cũng được thực hiện. Chuột trong khoa học2 loại nhiều nhất dùng thí nghiệm là chuột nhắt (mice) và chuột cống (rat). Từ 2 loài thuần chủng này, người ta tạo ra hàng ngàn chủng chuột khác nhau tuỳ theo mục đích thí nghiệm. Phân loại theo tính năng, chia ra 2 loại chuột thí nghiệm: chuột thuần chủng và chuột biến đổi gene. Chuột thuần chủng là các loại chuột dùng cho các kiểm nghiệm an toàn thuốc, thực phẩm, mỹ phẩm, cung cấp các nguồn tế bào phôi, tế bào gốc, cung cấp tế bào lai, sản xuất các chế phẩm sinh y học, nghiên cứu hoá chất gây ung thư… hay trong giảng dạy. Chuột chuyển gene dùng để nghiên cứu cơ bản: gene, làm mô hình nghiên cứu các bệnh tật nan y. Một số hướng nghiên cứu hiện nay thí nghiệm trên các chủng chuột chuyển gene là: Hội chứng Down dùng dòng chuột - Ts65Dn; bệnh xơ cứng Cystic Fibrosis (CF) – dùng chuột The Cftr knockout ; ung thư: p53 knockout; tăng nhãn áp gây mù (Glaucoma): DBA/2J; tiểu đường týp 1 bệnh tự miễn; tiểu đường týp 2 do rối loạn chuyển hoá sau 40 tuổi; bệnh động kinh ở trẻ em; bệnh tim mạch; bệnh mất dinh dưỡng cơ; ung thư cổ tử cung; HIV-ADIS… cứ mỗi loại bệnh sẽ tương ứng một đến vài dòng chuột chuyển gene. Chỉ riêng phòng thí nghiệm The Jackson thuộc Viện Nghiên cứu di truyền học Mỹ, đã có khoảng 2700 chủng chuột thí nghiệm, mỗi năm cung cấp tới 2 triệu con chuột đặc chủng cho các nhà khoa học trên thế giới. Chuột thí nghiệm tại Việt NamKhu vực chăn nuôi chuột thí nghiệm tại Viện Vệ sinh dịch tễ học TW, Hà Nội là nơi đầu tiên tại Việt Nam chuẩn hoá động vật thí nghiệm phục vụ y tế, trong đó chủ yếu là chuột thuần chủng dùng kiểm nghiệm. Viện Pasteur TP.HCM, Viện Vaccine Nha Trang… cũng có các khu nuôi chuột thí nghiệm. Xét về chuyên sâu và phục vụ nghiên cứu đặc biệt thì các trung tâm nuôi chuột thí nghiệm của Việt Nam còn rất xa mới có thể hội nhập cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dòng chuột và nhân sự. Chuột thí nghiệm là một phần (cao cấp) trong toàn cảnh nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về sinh y học. Việc đầu tư người và của; định hướng chiến lược ngắn hạn và dài hơi trong nghiên cứu và ứng dụng dùng động vật thí nghiệm, hay chuột thí nghiệm cần các nhà chuyên môn và chuyên gia tư vấn tài giỏi. Họ cần có tầm nhìn, nguồn lực để triển khai một cách phù hợp, không lãng phí trong bối cảnh khoa học kỹ thuật hiện tại của nước nhà đỡ tụt hậu là rất khó. Vị thế con chuột thí nghiệm tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh cũng vậy… |