
Người con đã được bố mẹ cho quyền sử dụng đất thì có quyền đòi chia thừa kế nữa không?

Sàn GD Bất động sản DV LAND!
Chào bạn! Về câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau:
Giả sử, Mảnh đất bố mẹ bạn đã chia cho bạn 51 m2 và anh C là 149m2. Bố mẹ bạn đồng ý chia đất và tách thửa cho hai anh em bạn.
Như vậy, diện tích đất sau khi chia cho hai bạn còn lại là 679m2. 679m2 này được coi là tài sản chung của bố mẹ bạn. Như vậy, khi bố bạn chết đi không để lại di chúc, tài sản thuộc về bố bạn trong khối tài sản chung với mẹ bạn là: 679 : 2 ~ 340m2. Diện tích đất này sẽ được chia đều theo pháp luật.
BLDS năm 2005 quy định tại Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật :
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”.
Như vậy, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: mẹ bạn, 8 anh em bạn sẽ được chia đều số tài sản này, mỗi người sẽ được ~ 38m2 (340:9 ~ 38m2).
Mẹ bạn chỉ có quyền chia đất thuộc sở hữu riêng của mẹ bạn trong khối tài sản chung của bố bạn, bao gồm (340m2 + 38 m2 = 378m2) cho ba người con trai chưa được chia.
Câu trả lời này chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu cần hỗ trợ gì thêm, vui lòng liên hệ với chúng tôi.

“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong... tặng cho tài sản”.
Vì diện tích đất 879 m2 là tài sản của bố mẹ ông nên vào các năm 1983 và 1991 bố mẹ ông đã thực hiện quyền định đoạt bằng cách chia cho hai người con (là ông và ông C) mỗi người một mảnh đất trong tổng số diện tích này khi xây dựng gia đình là phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai vào thời điểm đó bởi vì Luật đất đai năm 1987 chỉ nghiêm cấm người sử dụng đất “mua bán đất đai... dưới mọi hình thức” (Điều 5) chứ không nghiêm cấm việc bố mẹ chia đất cho con để xây nhà và sử dụng.
Vì bố ông mất không để lại di chúc nên việc chia thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định về hàng thừa kế thứ nhất gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” nên mẹ ông và tám người con (trong đó có cả ông và ông C) sẽ được chia thừa kế của bố. Như vậy, ông C cũng có quyền yêu cầu chia thừa kế (đối với phần di sản của bố ông).
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì mẹ ông không muốn chia thêm đất cho ông C (vì ông C đã được chia 149 m2 khi bố ông còn sống) mà mẹ ông chỉ định chia đất cho những con chưa được bố mẹ cho đất. Việc ông C có được hưởng thêm đất nữa không phụ thuộc vào kỷ phần thừa kế mà mỗi người thừa kế được hưởng.
Có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp 1: căn cứ khoản 1 Điều 18 Luật đai năm 1987(1)(1) Khoản 1 Điều 18 Luật đất đai năm 1987 quy định: “Khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép chuyển quyền sử dụng, thay đổi mục đích sử dụng hoặc đang sử dụng đất hợp pháp mà chưa đăng ký thì người sử dụng phải xin đăng ký đất đai tại cơ quan nhà nước nói tại khoản 2 Điều này” quy định nghĩa vụ của người đang sử dụng đất hợp pháp : “... phải xin đăng ký đất đai” tại Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (là Uỷ ban nhân dân quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và Uỷ ban nhân dân xã thuộc huyện). Nếu như ông C sau khi được bố mẹ chia đất đã xây dựng nhà ở và đã thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và được đứng tên trong bản đồ địa chính thì được coi là người sử dụng đất (đối với diện tích 149 m2). Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003(2)(2) Điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;” quy định một trong những loại giấy tờ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là người sử dụng đất “có tên trong sổ địa chính” thì ông C vẫn có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản của bố ông theo quy định của pháp luật (trường hợp bố ông mất đi không để lại di chúc) vì theo quy định tại Điều 635 Bộ luật dân sự năm 1995(3)(3) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. “Mọi cá nhân đều bình đẳng về... quyền hưởng di sản... theo pháp luật”.
Trong trường hợp này phần diện tích đất mà ông C được bố mẹ chia khi bố đang còn sống không được tính vào khối tài sản chung.
- Trường hợp 2: nếu ông C chưa thực hiện nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và chưa được đứng tên trong bản đồ địa chính, nay mẹ ông không thừa nhận việc cho đất trước kia thì ông C chưa phải là người sử dụng đất hợp pháp (đối với diện tích 149 m2) theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ông C vẫn có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của bố theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này phần diện tích mà ông C đang quản lý được tính vào khối tài sản chung để chia.
Việc chia khối tài sản chung trong cả hai trường hợp như sau:
- Căn cứ Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959(4)(4) Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” thì mẹ ông được quyền sở hữu đối với một nửa khối tài sản. Do đó khối tài sản chung được chia đôi và mẹ ông được hưởng 419 m2 đất (nếu thuộc trường hợp 2).
- Căn cứ khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 2 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005) thì một nửa khối tài sản của bố ông (là quyền sử dụng 439,5 m2) được chia thành các phần bằng nhau cho những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005) thì những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: “Vợ, chồng,... con đẻ của người chết”. Do đó phần của bố ông về nguyên tắc sẽ được chia thành 9 phần bằng nhau (cụ thể là cho cả mẹ ông và 8 người con trong đó có 3 người con gái đã đi lấy chồng). Mỗi người sẽ được hưởng kỷ phần là 48,83 m2 (nếu thuộc truờng hợp 2). Căn cứ dữ kiện ông nêu thì ông C đã được chia 149 m2 là nhiều hơn kỷ phần thừa kế mà ông C được hưởng nên ông C phải có trách nhiệm thanh toán lại cho những người thừa kế khác để bảo đảm cho họ được hưởng đủ với kỷ phần mà họ được hưởng theo pháp luật.
Còn nếu thuộc trường hợp 1 thì khối tài sản chung của bố mẹ được xác định là 730 m2 và phần di sản thừa kế của bố ông là 365 m2. Như vậy mỗi kỷ phần thừa kế sẽ là 40,55 m2. Đây cũng là số đất mà ông C được hưởng thêm.