
Phương pháp nào điều trị suy thận mạn hiệu quả?
Mình nghe nói suy thận mạn không chữa khỏi được mà chỉ giúp không làm cho bệnh phát nặng hơn. Có ai biết phương pháp nào điều trị hiệu quả không? Thật sự điều trị suy thận rất tốn kém.

Hành trình tự chữa khỏi bệnh suy thận mãn sau hơn một năm chạy thận.
Em xin kể ra đây câu chuyện bố em đã tự chữa khỏi bệnh suy thận để mọi người tham khảo nhé.
Bố em là người bị thất bại trong kinh doanh nên một thời gian rất dài ông sống trong trầm cảm, buồn chán. Rồi bố em bị suy thận, đã chạy thận hơn 1 năm, bố em là người lý trí, khá hiểu biết nên ông không chấp nhận điều trị theo đông y hay theo một số thầy lang khác. Vì theo ông thận chủ về lọc máu, đưa thuốc vào chữa trị là đưa thêm tạp chất vào máu, làm cho máu thêm bẩn, nên uống vào nếu không thấy đỡ thì chắc chắn là đã có hại, và thận sẽ càng bị hủy hoại nhanh hơn.
Một lần tình cờ được bác Thắng đang sinh hoạt ở CLB cảm xạ Thăng Long (trường TH Kim Liên) kể cho bố em nghe CLB vừa mời một vị khách đến nói chuyện về lĩnh vực tâm linh và dưỡng sinh năng lượng. bố em nghe qua thấy thú vị nên hỏi bác Thắng có thể liên lạc được với vị đó ko, chỉ là vì tò mò muốn gặp gỡ giao lưu chứ không hề nghĩ đến và cũng không biết là vị đó có thể chữa được bệnh.
Thật bất ngờ khi vừa gặp thì “lão ấy” (bố em gọi đùa anh ta như thế) đã nói ngay: “bệnh tật với bác chỉ là một cơ duyên, tốt nhiều hơn là xấu”; mãi sau này khi bệnh tật đã khỏi, cuộc sống đã thay đổi thì bố em mới thấm thía câu nói này.
Lão ấy mà bố em gặp là một hành giả thiền tông ẩn tu đã nhiều năm, điều đặc biệt là gặp ai lão đều có thể biết về quá khứ, tương lai của người đó. Biết nguồn gốc gây nên bệnh là do lối sống, do phong thủy nhà ở, do nghiệp chướng hay do bị ảnh hưởng bởi gia tiên….và lão sẽ chỉ cho người ta con đường ngắn nhất, nhanh nhất để chữa khỏi bệnh mà không mất một đồng nào. Đơn giản theo lão chỉ là cách điều chỉnh cơ thể để cho nó trở về hợp với quy luật tự nhiên, cân bằng âm dương, từ đó mọi bệnh tật, số phận đều được thay đổi.
Mới đầu em đi cùng bố em gặp lão ấy 3 lần (vì bố em không tự đi được xe máy nữa) nói chuyện suốt 3 buổi, theo như lời lão nói thì khi con người ta bị bệnh thì cả thân và tâm của người đó đều đã bệnh, mất cân bằng thân tâm, nhưng gốc của bệnh là ở tâm. Vì vậy trước khi chữa khỏi bệnh cần phải chuyển được tâm trước, đó chính là lý do mà lão đã phân tích, nói chuyện với bố em suốt 3 buổi chiều ròng rã (điều lạ là vào quán café lão ấy không uống bất cứ thứ gì, mời lão ăn cơm cũng khó vì lão ăn chay).
Khi người bệnh đã chuyển được tâm thì lão sẽ hướng dẫn cho người bệnh cách ăn uống để cải nghiệp, cách hóa giải phong thủy nhà ở, cách bài trí, thờ cúng trong gia đình…và cuối cùng, quan trọng nhất là phương pháp tập luyện thiền năng lượng, lão dạy cho người bệnh phương pháp tập luyện (5 buổi) tại căn phòng nhỏ của lão hoàn toàn miễn phí, người học còn được lão tặng tài liệu, đĩa CD; từ 9h – 11h thứ 7, CN hàng tuần em thấy có nhiều người đến nhà lão ngồi thiền và được lão trợ giúp. Cách tập là lão giúp khai mở các luân xa, đại huyệt (các cửa thu hút năng lượng từ thiên nhiên để đưa vào cơ thể), hướng dẫn cách tập trung đưa nguồn năng lượng đến cơ quan bị bệnh, ngoài ra còn có phương pháp luyện thở, luyện tập thể dục đúng cách để tăng cường nội lực, ăn uống … từ đó mọi bệnh tật sẽ được chữa khỏi. Phần lớn là lão yêu cầu người bệnh bỏ ngay các loại thuốc đang dùng, và người bệnh sẽ cảm nhận ngay được hiệu quả của phương pháp. Theo lời lão thì một người có thể tự chữa khỏi bệnh trầm cảm cho mình trong vòng 7 ngày, bệnh huyết áp, tim mạch, tiểu đường, đau nhức… 49 ngày, bệnh nan y thì cần lâu hơn.
Một lần theo bố đến nhà lão học (lão dạy cho cả những người không bị bệnh để họ có thể chữa bệnh cho người khác), lão mời bố và em ở lại ăn cơm chay cùng lão, chỉ có cơm lứt với muối vừng (lão sống thật thanh đạm), nhưng đó là lần đầu tiên em được hiểu thế nào là triết lý nhân sinh trong ăn uống, và vì sao cách ăn uống lại gây nên bệnh cũng như có thể chữa khỏi bệnh.
Sau hơn 8 tháng tự tập luyện (thỉnh thoảng có sự trợ giúp trực tiếp hoặc từ xa của lão), điều chỉnh ăn uống, lối sống, bệnh của bố em đã khỏi hoàn toàn, công việc của bố em đã tiến triển, cuộc sống gia đình em như được thổi một làn gió mới. Điều lạ là bố em khi tập thành công phương pháp này lại có thể đặt tay chữa khỏi nhiều bệnh khác cho mọi người trong nhà.
Chưa một lần bố em và cả em nữa nói lời cảm ơn với lão, nhưng lão đã trở nên rất thân thiện với gia đình em, thế mới biết trong cuộc sống không phải điều gì cũng nên sòng phẳng, không phải điều gì cũng cần phải nói thành lời. Em thấy lão cũng rất thân thiện với nhiều người, bố em thì cứ thi thoảng gọi điện hỏi lão về những chuyện khác.
Khi gặp lão mọi người chắc sẽ học được từ lão lòng thiện tâm, biết vì người khác. Em cũng mạn phép lão đưa ra ít thông tin về lão cho mọi người biết. đt: 0982098074, email: laohac_tiensinh@yahoo.com.
Nếu đủ duyên mọi người sẽ gặp, nhưng không phải ai lão cũng giúp đâu, theo lời lão thì tại lão chưa đến duyên xuất thế, khả năng của lão cũng chưa đủ. Những lời từ chối nhẹ nhàng nhưng chẳng mất lòng: “tôi không có khả năng, bạn gọi nhầm số, người ta cứ nói quá lên đấy… là những câu mà lão hay nói. Nhưng theo em thấy, bất cứ người lạ nào chỉ cần gọi điện hay gửi email cho lão thôi thì lão đã biết được khá nhiều về người đó, nếu may mắn gặp mặt thì lão sẽ còn biết nhiều hơn, quá khứ, hiện tại, tương lai, bệnh có chữa khỏi được ko, vì sao ko chữa được….Bệnh tật theo lão thì đó là quả nghiệp mà người ta phải trả do đã gieo nhân từ trước. Vì thế không phải ai lão cũng có thể giúp cải nghiệp hay gánh nghiệp cho họ. Mọi việc đối với lão chỉ là một chữ “Duyên” mà thôi.

Suy thận mạn là hậu quả của các bệnh thận mạn tính, do giảm sút từ từ số lượng nêphron làm giảm dần chức năng của thận
Hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỷ thuật người ta đã hiểu rõ suy thận mạn hơn trong lĩnh vực cơ chế sinh bệnh và nhất là các biện pháp điều trị hữu hiệu nó.
Từ khi ra đời các phương pháp lọc máu ngoài thận và nhất là ghép thận tiên lượng của những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối đã có nhiều khả quan hơn, người bệnh có thể sống sinh hoat gần như người bình thường với thận nhân tạo, lọc màng bụng hoặc thận ghép.
1. Khái quát chung trong điều trị suy thận mạn.
Áp dụng các biện pháp điều trị dành cho bệnh nhân suy thận mạn phụ thuộc vào giai đoạn hay nói cách khác là mức độ nặng, nhẹ của suy thận mạn.
Trong giai đoạn sớm của suy thận mạn điều trị bao gồm chế độ dinh dưỡng, thuốc, điều trị nguyên nhân. Những biện pháp điều trị này được gọi là điều trị bảo tồn, với mục đích làm chậm suy thận mạn diễn tiến đến giai đoạn cuối.
Trong giai đoạn cuối của suy thận mạn cần thiết phải phối hợp giữa điều trị bảo tồn và các biện pháp gọi là điều trị thay thế thận suy như lọc màng bụng, thẩm phân máu ( thận nhân tạo), ghép thận.
Các biện pháp điều trị trong suy thận mạn có quan hệ chặt chẽ với nhau, bỗ trợ và bổ sung cho nhau: Ở các giai đoạn đầu của suy thận mạn thì điều trị bảo tồn, đến một giai đoạn nào đó không còn đủ hiệu quả thì bệnh nhân được điều trị bằng lọc máu ngoài thận (lọc màng bụng, thận nhân tạo), khi cần thiết, có chỉ định cũng như có thận phù hợp thì ghép thận. Sau khi ghép thận nếu thận ghép bị đào thải thì bệnh nhân lại được lọc máu . Ngay cả sau ghép thận vẫn phải điều trị bảo tồn.
2.Ðiều trị bảo tồn suy thận mạn.
Mục đích của điều trị bảo tồn là đảm bảo cho người bệnh giữ được chức năng thận với thời gian dài nhất có thể được, nhờ vào giữ hằng định nội môi mặc dù người bệnh có giảm chức năng thận.
Ðể đạt được mục đích của điều trị bảo tồn, cần phải cần nhắm đến các mục tiêu sau:
+ Cần phải làm chậm tiến triển của suy thận,
+ Giảm thiểu sự tích lũy của urê và những độc tố thuộc urê,
+ Kiểm soát tốt tăng huyết áp,
+ Ngăn ngừa xơ vữa và ảnh hưởng trên tim mạch của nó,
+ Giữ được cân bằng nước điện giải và calciphospho.
+ Tránh sự thiếu dinh dưỡng và giữ gìn tốt hơn chất lượng sống của người bệnh.
Ðiều trị bảo tồn bao gồm những biện pháp tiết thực và thuốc, những biện pháp này cần phải thực hiện ở giai đoạn sớm để cho phép bệnh nhân tránh những biến chứng.
2.1.Làm chậm tiến triển của suy thận mạn: Ngoài điều trị bệnh nguyên dẫn đến suy thận mạn. Hiên nay có các can thiệp được đưa ra nhằm làm chậm tối đa tiến triển của các bệnh thận mạn là:
- Kiểm soát có hiệu quả huyết áp.
- Sử dụng thuốc ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể của angiotensine II.
- Chế độ ăn hạn chế Protide.
- Kiểm soát có hiệu quả đường huyết ở những bệnh nhân đái tháo đường.
2.1.1 Điều trị tăng huyết áp.
- Những nghiên cứu lâm sàng được thực hiện cho đến nay đã cho kết luận rằng khi kiểm soát tốt tăng huyết áp sẽ làm chậm rất hiệu quả diễn tiến của các bệnh thận mạn.
- Những khuyến cáo hiện nay là giữ huyết áp của bệnh nhân suy thận mạn ở mức:
+ Dưới 130 / 85 mm Hg khi prôtêin niệu dưới 1 g / 24 giờ.
+ Dưới 125 / 75 mm Hg khi prôtêin niệu trên hoặc bằng 1 g / 24 giờ.
2.1.2. Chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine.
+ Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 1 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển.
+ Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc chẹn thụ thể của angiotensine II.
Cho đến hiện nay, liều lượng tối ưu của các thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine vần còn là câu hỏi chưa có câu trả lời thoả đáng. Những thuốc trong nhóm này ngoài tác dụng hạ huyết áp còn làm giảm mức độ lọc prôtêin niệu. Prôtêin niệu lại đóng vai trò chủ yếu trong tiến triển bệnh lí thận.Vì thế liều lượng các thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine phải được sử dụng thích hợp không những kiểm soát được huyết áp mà còn làm giảm tối đa prôtêin niệu.
2.1.3. Hạn chế prôtide:
Phân tích những nghiên cứu lâm sàng đã xác nhận rằng hạn chế prôtide cho phép làm chậm tiến triển của suy thận mạn. Vì vậy, yêu cầu một chế độ prôtide từ 0,8 đến 1g/kg/ngày ở những bệnh nhân có độ lọc cầu thận dưới 60 ml/phút. Nhưng khẩu phần hạn chế prôtide này phải có calori đầy đủ (30 đến 35 kcal/kg/ngày).
2.1.4. Dự phòng những nguyên nhân của suy thận cấp: cần phải loại bỏ các yếu tố thuận lợi của suy thận cấp trên những đối tượng này.
2.2.Điều trị những biến chứng của suy thận mạn:
2.2.1 Điều trị thiếu máu:
Gần đây việc điều trị thiếu máu ở bệnh nhân Suy thận mạn đã có những tiến bộ đáng kể trong thập niên vừa qua nhờ vào sản xuất ra Erythropoeétine tái tổ hợp (r -HuEPO). Trước năm 1989 điều trị thiếu máu chỉ được áp dụng bằng truyền máu và từ đó nguy cơ tích lũy sắt và nhiễm các bệnh virus và đặc biệt là viêm gan siêu vi C. Các chế phẩm thường dùng là EPREX, EPOKIN và RECORMON được sử dụng bằng đường tiêm dưới da với bơm tiêm tự động, cho phép người bệnh có thể tự thực hiện.
Điều chỉnh thiếu máu cần phải từ từ để tránh xuất hiện hoặc gia tăng huyết áp, liều lượng tấn công trung bình là 50 đến 70 đơn vị/kg/tuần bằng 2 lần tiêm.
2.2.2 Điều trị những rối loạn Calci - phospho.
Dự phòng hạ calci máu, tăng phospho máu và tăng họat tuyến cận giáp thứ phát là một biện pháp cơ bản của điều trị suy thận mạn. Dự phòng này là cần thiết để tránh những thương tổn gây rối loạn xương do thận và mất muối khoáng xương.Hiện nay những rối loạn calci-phospho có thể được ngăn ngừa hoàn toàn với điều kiện điều trị được thực hiện sớm ngay suy thận giai đoạn đầu.Mục đích của điều trị là giữ canxi máu giữa 2,3 và 2,5 mmol/l (không vượt quá giới hạn này) và phốtpho máu dưới 1,7 mmol/l Mặt khác tỷ lệ hocmon cận giáp PTH cần thiết phải được giữ ở mức lý tưởng ở bệnh nhân suy thận mạn là giữa 100 và 200 pg/ml
2.2.3. Điều trị toan máu:
Toan máu là một hậu quả tương đối sớm của suy thận mạn, do giảm khả năng đào thải ion H+ qua đường thận. Ở những bệnh nhân suy thận mạn, cần được điều chỉnh tỷ lệ bicarbonate máu trên 22 mmol/l bằng cách bổ sung bằng Natri bicarbonate.
2.2.4. Điều trị tăng kali máu: Điều trị tăng kali máu mức độ trung bình bao gồm:
+ Hạn chế các thức ăn nhiều kali.
+ Dùng Kayexalate, Bicarbonate Natri.
+ ngừng các thuốc gây tăng kali máu (thuốc lợi tiểu giữ Kali…)
2.2.5. Những biến chứng khác:
Những biến chứng khác của suy thận mạn thường đến muộn khi mức lọc cầu thận dưới 15ml/phút, cần thiết phải điều trị là:
+ Suy dinh dưởng.
+ Những rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, nôn mữa. Viêm dạ dày là thường gặp ở bệnh nhân suy thận mạn.
+ Viêm màng ngoài tim, có thể chèn ép tim.
+ Bệnh lí thần kinh ngoại biên loại viêm đa dây thần kinh.
+ Giảm đáp ứng miễn dịch: cần tiêm chủng vaccin sớm nhất là Viêm gan siêu vi B.
+ Rối loạn chức năng đông máu: kéo dài thời gian chảy máu.
2.3. Điều trị những yếu tố nguy cơ tim mạch:
Những bệnh nhân suy thận mạn thường là những bệnh nhân có nguy cơ rất cao về bệnh lí tim mạch. Cần phải điều trị một cách triệt để các bệnh lí tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, béo phì.
2.4. Chuẩn bị điều trị thay thế thận suy.
+ Tạo đường mạch máu để lọc máu ngoài thận.
+ Giáo dục người bệnh về các thông tin của điều trị thay thế thận suy.
+ Đề phòng một số nhiễm trùng bằng Vaccin: uốn ván, viêm gan B, phế cầu...
3. Điều trị thay thế thận suy.
3.1.Tiêu chuẩn quyết định điều trị thay thế thận suy.
Tiêu chuẩn chung để quyết đinh điều trị thay thế thận suy được chấp nhận ở nhiều nước trên thế giới là giảm mức lọc cầu thận giữa 5 và 10ml/phút.
3.2 Lọc máu chu kỳ.
Nguyên lý chính của thẩm phân (lọc máu) là dựa trên sự trao đổi giữa máu của bệnh nhân và dịch thẩm phân mà thành phần cấu tạo gần giống với huyết tương bình thường thông qua một màng bán thấm. Sự trao đổi này cho phép bài xuất những sản phẩm cặn bả azôte và những độc tố thuộc urê khác, đồng thời đưa vào huyết tương của người bệnh một nồng độ các chất điện giải.
Có hai phương pháp chính trong lọc máu chu kỳ, khác nhau cơ bản về bản chất của màng lọc:Thẩm phân máu (hémodialyse) hoặc là lọc ngoài cơ thể (Dialyse extracorporelle) sử dụng màng lọc nhân tạo trong khi thẩm phân màng bụng hoặc lọc trong cơ thể, dùng chính lá phúc mạc của người bệnh. Hai phương pháp này cho phép thay thế chức năng bài tiết và điều hòa nước điện giải của thận bị hư hỏng, nhưng không có khả năng bù trừ lại những chức năng nội tiết của thận, cần thiết phải điều trị bảo tồn kết hợp.
3.3. Ghép thận.
Trong các biện pháp điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối, ghép thận được xem là phương pháp mang lại hiệu quả nhất, không những thay thế chức năng bài tiết mà còn hồi phục chức năng nội tiết của thận.
Ghép thận có thể thực hiện ở tất cả bệnh nhân suy thận mạn cho dù họ đã lọc máu hoặc sắp lọc máu, thông thường là những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối và với điều kiện là bệnh nhân hoàn toàn tự nguyện ghép thận và không có chống chỉ định.
Độ tuổi giới hạn trước đây từ 50 đến 55 tuổi, hiện nay đã có thể kéo dài độ tuổi đến 65 tuổi, đặc biệt nhờ vào cyclosporin A cho phép sử dụng những liều lượng thấp corticoid so với trước làm giảm những biến chứng nguy hiểm của corticoid liều cao, nhất là ở những người lớn tuổi. Cũng như tình trạng toàn thân đảm bảo có thể tiến hành ghép thận được.
Thông thường thận ghép được cố định trong hố chậu, thận được đặt trong tình trạng tự nhiên nhất để có một vị trí tốt về phương diện mạch máu.
Tỉnh mạch thận được nối tận bên với tỉnh mạch chậu của người nhận. Động mạch của thận ghép được nối tận - bên với động mạch chậu chung hay động mạch chậu ngoài hoặc bằng cách nối tận - tận với động mạch hạ vị.
Kỷ thuật nối niệu quản của thận ghép:Thông thường nhất là niệu quản được nối vào bàng quang và đặt sonde JJ kèm theo để chống sự trào ngược, nhưng cũng có thể nối niệu quản - niệu quản, nhưng kỉ thuật này cần thiết niệu quản của người bệnh tốt và không có bệnh lí trào ngược bàng quang - niệu quản.
Những tiến bộ hiện nay về điều trị ức chế miễn dịch, đặc biệt từ khi có cyclosporine A đã cho phép cải thiện liên tục hiệu quả của ghép thận: Thời gian tồn tại của thận ghép từ nguồn là người chết đạt được 90% sau 1 năm, 80% sau 5 năm và trên 50% sau 10 năm. Những tỷ lệ này lần lượt là 95%, 90%, 80% trong trường hợp thận ghép của người cho còn sống và cùng huyết thống.

Suy thận mạn là hội chứng thận mất chức năng dần dần và ngày càng nặng theo thời gian. Do đó, việc phát hiện sớm suy thận để điều trị bảo tồn, ngăn chặn bệnhtiến triển sang giai đoạn nặng hơn có vai trò hết sức quan trọng.
Đa số bệnh nhân suy thận được phát hiện muộn, có tới 67% bệnh nhân đến bệnh viện phải lọc máu ngay; trong khi 50% bệnh nhân bị chẩn đoán sai, nhiều biến chứng, điều trị rất tốn kém và làm rút ngắn đời sống của người bệnh.
Theo thống kê, hiện nay nước ta có khoảng 8 triệu người bị suy thận mạn từ giai đoạn 1 đến giai đoạn cuối. Ở các giai đoạn sớm, bệnh nhân cần được điều trị bảo tồn với mục đích làm chậm diễn tiến và hạn chế biến chứng của suy thận mạn. Điều trị bảo tồn bao gồm: điều trị nguyên nhân gây suy thận mạn, kiểm soát tốt huyết áp, ổn định đường huyết; điều trị thiếu máu, rối loạn mỡ máu, rối loạn photpho-canxi, tránh sử dụng thuốc bừa bãi, theo dõi sức khỏe định kỳ,... Đến giai đoạn suy thận nặng, bệnh nhân cần được lọc máu tại bệnh viện hoặc ghép thận. Tuy nhiên, chi phí chạy thận, đặc biệt ghép thận rất cao, nguồn tạng còn hạn chế.
Bên cạnh sử dụng thuốc thì chế độ ăn uống hợp lý đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm chậm tiến trình suy thận. Bệnh nhân cần giảm muối, ăn nhạt khi có phù, hạn chế chất đạm, không ăn phủ tạng động vật, hạn chế thức ăn giàu kali như chuối tiêu, rau dền,… cai rượu bia, uống đủ nước trong ngày.
Trong nhiều năm qua, xu hướng chung là điều trị dự phòng, kéo dài thời gian suy thận (nhẹ và vừa) càng lâu càng tốt. Chính vì vậy, nhiều bác sĩ và bệnh nhân đang tin tưởng lựa chọn các sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên, hiệu quả bền vững, không gây tác dụng phụ khi dùng lâu dài mà Ích thận vương là tiêu biểu trong số đó. Ích thận vương với thành phần là các nhóm dược liệu không chỉ làm tăng cường chức năng thận, tăng vi tuần hoàn thận, bảo vệ tế bào thận khỏi sự phá hủy ( Đan Sâm, Hoàng Kỳ, Dành Dành,…) phối hợp với nhóm lợi tiểu ( Râu mèo, Mã đề, Bạch phục linh) và nhóm tăng cường tạo máu (L- cartinin, Trầm hương, Linh chi đỏ) giúp điều trị các triệu chứng: phù, thiếu máu, mệt mỏi ở người suy thận
Ích thận vương tác động lên cả nguyên nhận và triệu chứng của suy thận, tăng cường chức năng thận. Do đó làm chậm tiến trình của suy thận đồng thời phòng ngừa suy thận ở những bệnh nhân có nguy cơ như: Đái tháo đường, Cao huyết áp, Gout, Lupus ban đỏ,…. Đặc biệt dùng được cho bệnh nhân suy thận trong giai đoạn chạy thận.
Trên đây là những thông tin mà mình tìm hiểu được, có ai còn có những thông tin bổ ích hay những thuốc nào điệu trị hiệu quả cho bệnh nhân suy thận mạn thì chia sẻ cho mọi người để những người cần biết thông tin về suy thận có thể tham khảo

Suy thận mạn là hậu quả của các bệnh thận mạn tính, do giảm sút từ từ số lượng nêphron làm giảm dần chức năng của thận
Hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỷ thuật người ta đã hiểu rõ suy thận mạn hơn trong lĩnh vực cơ chế sinh bệnh và nhất là các biện pháp điều trị hữu hiệu nó.
Từ khi ra đời các phương pháp lọc máu ngoài thận và nhất là ghép thận tiên lượng của những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối đã có nhiều khả quan hơn, người bệnh có thể sống sinh hoat gần như người bình thường với thận nhân tạo, lọc màng bụng hoặc thận ghép.
1. Khái quát chung trong điều trị suy thận mạn.
Áp dụng các biện pháp điều trị dành cho bệnh nhân suy thận mạn phụ thuộc vào giai đoạn hay nói cách khác là mức độ nặng, nhẹ của suy thận mạn.
Trong giai đoạn sớm của suy thận mạn điều trị bao gồm chế độ dinh dưỡng, thuốc, điều trị nguyên nhân. Những biện pháp điều trị này được gọi là điều trị bảo tồn, với mục đích làm chậm suy thận mạn diễn tiến đến giai đoạn cuối.
Trong giai đoạn cuối của suy thận mạn cần thiết phải phối hợp giữa điều trị bảo tồn và các biện pháp gọi là điều trị thay thế thận suy như lọc màng bụng, thẩm phân máu ( thận nhân tạo), ghép thận.
Các biện pháp điều trị trong suy thận mạn có quan hệ chặt chẽ với nhau, bỗ trợ và bổ sung cho nhau: Ở các giai đoạn đầu của suy thận mạn thì điều trị bảo tồn, đến một giai đoạn nào đó không còn đủ hiệu quả thì bệnh nhân được điều trị bằng lọc máu ngoài thận (lọc màng bụng, thận nhân tạo), khi cần thiết, có chỉ định cũng như có thận phù hợp thì ghép thận. Sau khi ghép thận nếu thận ghép bị đào thải thì bệnh nhân lại được lọc máu . Ngay cả sau ghép thận vẫn phải điều trị bảo tồn.
2.Ðiều trị bảo tồn suy thận mạn.
Mục đích của điều trị bảo tồn là đảm bảo cho người bệnh giữ được chức năng thận với thời gian dài nhất có thể được, nhờ vào giữ hằng định nội môi mặc dù người bệnh có giảm chức năng thận.
Ðể đạt được mục đích của điều trị bảo tồn, cần phải cần nhắm đến các mục tiêu sau:
+ Cần phải làm chậm tiến triển của suy thận,
+ Giảm thiểu sự tích lũy của urê và những độc tố thuộc urê,
+ Kiểm soát tốt tăng huyết áp,
+ Ngăn ngừa xơ vữa và ảnh hưởng trên tim mạch của nó,
+ Giữ được cân bằng nước điện giải và calciphospho.
+ Tránh sự thiếu dinh dưỡng và giữ gìn tốt hơn chất lượng sống của người bệnh.
Ðiều trị bảo tồn bao gồm những biện pháp tiết thực và thuốc, những biện pháp này cần phải thực hiện ở giai đoạn sớm để cho phép bệnh nhân tránh những biến chứng.
2.1.Làm chậm tiến triển của suy thận mạn: Ngoài điều trị bệnh nguyên dẫn đến suy thận mạn. Hiên nay có các can thiệp được đưa ra nhằm làm chậm tối đa tiến triển của các bệnh thận mạn là:
- Kiểm soát có hiệu quả huyết áp.
- Sử dụng thuốc ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể của angiotensine II.
- Chế độ ăn hạn chế Protide.
- Kiểm soát có hiệu quả đường huyết ở những bệnh nhân đái tháo đường.
2.1.1 Điều trị tăng huyết áp.
- Những nghiên cứu lâm sàng được thực hiện cho đến nay đã cho kết luận rằng khi kiểm soát tốt tăng huyết áp sẽ làm chậm rất hiệu quả diễn tiến của các bệnh thận mạn.
- Những khuyến cáo hiện nay là giữ huyết áp của bệnh nhân suy thận mạn ở mức:
+ Dưới 130 / 85 mm Hg khi prôtêin niệu dưới 1 g / 24 giờ.
+ Dưới 125 / 75 mm Hg khi prôtêin niệu trên hoặc bằng 1 g / 24 giờ.
2.1.2. Chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine.
+ Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 1 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển.
+ Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc chẹn thụ thể của angiotensine II.
Cho đến hiện nay, liều lượng tối ưu của các thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine vần còn là câu hỏi chưa có câu trả lời thoả đáng. Những thuốc trong nhóm này ngoài tác dụng hạ huyết áp còn làm giảm mức độ lọc prôtêin niệu. Prôtêin niệu lại đóng vai trò chủ yếu trong tiến triển bệnh lí thận.Vì thế liều lượng các thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine phải được sử dụng thích hợp không những kiểm soát được huyết áp mà còn làm giảm tối đa prôtêin niệu.
2.1.3. Hạn chế prôtide:
Phân tích những nghiên cứu lâm sàng đã xác nhận rằng hạn chế prôtide cho phép làm chậm tiến triển của suy thận mạn. Vì vậy, yêu cầu một chế độ prôtide từ 0,8 đến 1g/kg/ngày ở những bệnh nhân có độ lọc cầu thận dưới 60 ml/phút. Nhưng khẩu phần hạn chế prôtide này phải có calori đầy đủ (30 đến 35 kcal/kg/ngày).
2.1.4. Dự phòng những nguyên nhân của suy thận cấp: cần phải loại bỏ các yếu tố thuận lợi của suy thận cấp trên những đối tượng này.
2.2.Điều trị những biến chứng của suy thận mạn:
2.2.1 Điều trị thiếu máu:
Gần đây việc điều trị thiếu máu ở bệnh nhân Suy thận mạn đã có những tiến bộ đáng kể trong thập niên vừa qua nhờ vào sản xuất ra Erythropoeétine tái tổ hợp (r -HuEPO). Trước năm 1989 điều trị thiếu máu chỉ được áp dụng bằng truyền máu và từ đó nguy cơ tích lũy sắt và nhiễm các bệnh virus và đặc biệt là viêm gan siêu vi C. Các chế phẩm thường dùng là EPREX, EPOKIN và RECORMON được sử dụng bằng đường tiêm dưới da với bơm tiêm tự động, cho phép người bệnh có thể tự thực hiện.
Điều chỉnh thiếu máu cần phải từ từ để tránh xuất hiện hoặc gia tăng huyết áp, liều lượng tấn công trung bình là 50 đến 70 đơn vị/kg/tuần bằng 2 lần tiêm.
2.2.2 Điều trị những rối loạn Calci - phospho.
Dự phòng hạ calci máu, tăng phospho máu và tăng họat tuyến cận giáp thứ phát là một biện pháp cơ bản của điều trị suy thận mạn. Dự phòng này là cần thiết để tránh những thương tổn gây rối loạn xương do thận và mất muối khoáng xương.Hiện nay những rối loạn calci-phospho có thể được ngăn ngừa hoàn toàn với điều kiện điều trị được thực hiện sớm ngay suy thận giai đoạn đầu.Mục đích của điều trị là giữ canxi máu giữa 2,3 và 2,5 mmol/l (không vượt quá giới hạn này) và phốtpho máu dưới 1,7 mmol/l Mặt khác tỷ lệ hocmon cận giáp PTH cần thiết phải được giữ ở mức lý tưởng ở bệnh nhân suy thận mạn là giữa 100 và 200 pg/ml
2.2.3. Điều trị toan máu:
Toan máu là một hậu quả tương đối sớm của suy thận mạn, do giảm khả năng đào thải ion H+ qua đường thận. Ở những bệnh nhân suy thận mạn, cần được điều chỉnh tỷ lệ bicarbonate máu trên 22 mmol/l bằng cách bổ sung bằng Natri bicarbonate.
2.2.4. Điều trị tăng kali máu: Điều trị tăng kali máu mức độ trung bình bao gồm:
+ Hạn chế các thức ăn nhiều kali.
+ Dùng Kayexalate, Bicarbonate Natri.
+ Ngừng các thuốc gây tăng kali máu (thuốc lợi tiểu giữ Kali…)
2.2.5. Những biến chứng khác:
Những biến chứng khác của suy thận mạn thường đến muộn khi mức lọc cầu thận dưới 15ml/phút, cần thiết phải điều trị là:
+ Suy dinh dưởng.
+ Những rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, nôn mữa. Viêm dạ dày là thường gặp ở bệnh nhân suy thận mạn.
+ Viêm màng ngoài tim, có thể chèn ép tim.
+ Bệnh lí thần kinh ngoại biên loại viêm đa dây thần kinh.
+ Giảm đáp ứng miễn dịch: cần tiêm chủng vaccin sớm nhất là Viêm gan siêu vi B.
+ Rối loạn chức năng đông máu: kéo dài thời gian chảy máu.
2.3. Điều trị những yếu tố nguy cơ tim mạch:
Những bệnh nhân suy thận mạn thường là những bệnh nhân có nguy cơ rất cao về bệnh lí tim mạch. Cần phải điều trị một cách triệt để các bệnh lí tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, béo phì.
2.4. Chuẩn bị điều trị thay thế thận suy.
+ Tạo đường mạch máu để lọc máu ngoài thận.
+ Giáo dục người bệnh về các thông tin của điều trị thay thế thận suy.
+ Đề phòng một số nhiễm trùng bằng Vaccin: uốn ván, viêm gan B, phế cầu...
3. Điều trị thay thế thận suy.
3.1.Tiêu chuẩn quyết định điều trị thay thế thận suy.
Tiêu chuẩn chung để quyết đinh điều trị thay thế thận suy được chấp nhận ở nhiều nước trên thế giới là giảm mức lọc cầu thận giữa 5 và 10ml/phút.
3.2 Lọc máu chu kỳ.
Nguyên lý chính của thẩm phân (lọc máu) là dựa trên sự trao đổi giữa máu của bệnh nhân và dịch thẩm phân mà thành phần cấu tạo gần giống với huyết tương bình thường thông qua một màng bán thấm. Sự trao đổi này cho phép bài xuất những sản phẩm cặn bả azôte và những độc tố thuộc urê khác, đồng thời đưa vào huyết tương của người bệnh một nồng độ các chất điện giải.
Có hai phương pháp chính trong lọc máu chu kỳ, khác nhau cơ bản về bản chất của màng lọc:Thẩm phân máu (hémodialyse) hoặc là lọc ngoài cơ thể (Dialyse extracorporelle) sử dụng màng lọc nhân tạo trong khi thẩm phân màng bụng hoặc lọc trong cơ thể, dùng chính lá phúc mạc của người bệnh. Hai phương pháp này cho phép thay thế chức năng bài tiết và điều hòa nước điện giải của thận bị hư hỏng, nhưng không có khả năng bù trừ lại những chức năng nội tiết của thận, cần thiết phải điều trị bảo tồn kết hợp.
3.3. Ghép thận.
Trong các biện pháp điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối, ghép thận được xem là phương pháp mang lại hiệu quả nhất, không những thay thế chức năng bài tiết mà còn hồi phục chức năng nội tiết của thận.
Ghép thận có thể thực hiện ở tất cả bệnh nhân suy thận mạn cho dù họ đã lọc máu hoặc sắp lọc máu, thông thường là những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối và với điều kiện là bệnh nhân hoàn toàn tự nguyện ghép thận và không có chống chỉ định.
Độ tuổi giới hạn trước đây từ 50 đến 55 tuổi, hiện nay đã có thể kéo dài độ tuổi đến 65 tuổi, đặc biệt nhờ vào cyclosporin A cho phép sử dụng những liều lượng thấp corticoid so với trước làm giảm những biến chứng nguy hiểm của corticoid liều cao, nhất là ở những người lớn tuổi. Cũng như tình trạng toàn thân đảm bảo có thể tiến hành ghép thận được.
Thông thường thận ghép được cố định trong hố chậu, thận được đặt trong tình trạng tự nhiên nhất để có một vị trí tốt về phương diện mạch máu.
Tỉnh mạch thận được nối tận bên với tỉnh mạch chậu của người nhận. Động mạch của thận ghép được nối tận - bên với động mạch chậu chung hay động mạch chậu ngoài hoặc bằng cách nối tận - tận với động mạch hạ vị.
Kỷ thuật nối niệu quản của thận ghép:Thông thường nhất là niệu quản được nối vào bàng quang và đặt sonde JJ kèm theo để chống sự trào ngược, nhưng cũng có thể nối niệu quản - niệu quản, nhưng kỉ thuật này cần thiết niệu quản của người bệnh tốt và không có bệnh lí trào ngược bàng quang - niệu quản.
Những tiến bộ hiện nay về điều trị ức chế miễn dịch, đặc biệt từ khi có cyclosporine A đã cho phép cải thiện liên tục hiệu quả của ghép thận: Thời gian tồn tại của thận ghép từ nguồn là người chết đạt được 90% sau 1 năm, 80% sau 5 năm và trên 50% sau 10 năm. Những tỷ lệ này lần lượt là 95%, 90%, 80% trong trường hợp thận ghép của người cho còn sống và cùng huyết thống.