Câu hỏi
31/05/2013 20:00
Xin hỏi về sự lây nhiễm viêm gan siêu vi B
Theo em biết thì viêm gan siêu vi B lây qua đường máu như HIV,nhưng khả năng là nhanh hơn. Em đã cưới chông 3 năm rồi ! vừa rồi em đi xét nghiệm thì biết chồng em viêm gan siêu vi B,bác sĩ nói chắc bị lâu rồi.em thì đã chích ngừa từ lâu nên không sao. Nên em muốn hỏi xem vì sao chồng em bị nhiễm là do em lay qua không ? chồng em uống bia rượu cũng nhiều,và có tiểu phẫu 1 lần ở bệnh viện Sư vạn hạnh.nên em nghĩ là do những đường đó.và uống bia rượu nhiều thì có bị viêm gan siêu vi B ko? hay chi làm gan bị tổn thương thôi . Mong Bs cho em biết ,em rất cảm ơn ! em luôn lo có phải do em lây cho chồng em ko?
kaiba000
31/05/2013 20:00
banlaban3
31/05/2013 20:00
Danh sách câu trả lời (2)
Tham khảo thêm bài này nữa nhé :
1. Viêm gan siêu vi có mấy loại và nguy hiểm ra sao?
Có 5 loại bệnh viêm gan siêu vi được đánh bằng chữ: A, B, C, D, E. Còn một số khác chưa định rõ có thể gây viêm gan sau truyền máu, viêm gan mãn và xơ gan. Hai loại viêm gan típ A, E thường tự khỏi sau thể cấp, không gây ra viêm gan mãn hay xơ gan về sau này.
Trái lại, viêm gan B, C hay D có thể dẫn đến xơ gan, suy gan và ung thư gan. Khả năng gây tử vong của nhóm này cần thiết phải tìm ra phương thức trị liệu hữu hiệu. Trong số nhiều thuốc thử nghiệm duy chỉ có thuốc Interferon khảo cứu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, chứng tỏ hiệu quả phần nào trên diễn tiến bệnh viêm gan siêu vi mạn tính.
2. Diễn tiến bình thường của bệnh viêm gan siêu vi B?
Viêm gan siêu vi B phổ biến trên khắp thế giới với khoảng 300 triệu người mắc bệnh, 2 triệu người chết hàng năm. Tần suất cao ở Trung Phi và Nam Mỹ, Âu Châu: các nước cạnh biển Địa Trung Hải như Italia, Hy Lạp, Ai Cập. Nhưng các nước Bắc Âu tần suất bệnh này rất thấp 0,1-0,3%.
Tổng quát là vào khoảng 5-10% diễn tiến dẫn đến viêm gan mạn, 50% những người này chết vì xơ gan, ung thư gan. Ở nước ta, tần suất nhiễm siêu vi B lên khá cao từ 10-15% tùy theo quần thể, nghề nghiệp.
Viêm gan siêu vi B gây ra bởi siêu vi B, một virus DNA có vỏ, một khi tấn công tế bào gan, gây hủy hoại và viêm. Nhiễm trùng có thể cấp hay mạn đi từ nhiễm trùng không triệu chứng tự khỏi đến bệnh rất nặng: thể tối cấp rất hiếm, có kết cục tử vong.
Viêm gan siêu vi B cấp có HBsAg(+), men gan tăng cao 3-4 lần bình thường nhưng tự khỏi trong 90-95% bệnh nhân, có sự biến mất HBsAg và tế bào gan lành lại sau 4-6 tuần lễ mắc bệnh. Khoảng 5-10% viêm gan B lại diễn tiến thành thể mạn tính có HBsAg(+) lâu dài trong máu, một số ít diễn tiến viêm gan mạn có xét nghiệm máu HBsAg(+), HBc(+): khó làm ở nước ta, men gan SGOT, SGPT tăng nhẹ, HBeAg(+).
Trái lại những người chỉ có một xét HBsAg(+) lâu dài, có men gan SGOT, SGPT bình thường dưới 50UI, hoàn toàn không triệu chứng gọi là người lành mang mầm bệnh, không cần phải trị nhưng cần phải tiêm ngừa cho những người thân sống chung trong gia đình .
3. Bệnh nhân nào nghi ngờ viêm gan siêu vi B cần thử máu những gì, ý nghĩa ra sao?
Đầu tiên HBsAg(+) chứng tỏ nhiễm siêu vi B chứ không phải mắc bệnh. Nồng độ cao hay thấp không chứng tỏ bệnh nặng hay nhẹ. Viêm gan tối cấp, đa số tử vong có nồng độ HBsAg rất thấp chứng tỏ cơ chế bệnh là gia tăng đáp ứng miễn dịch với siêu vi B.
Bạn nên thử thêm HBeAg, nếu dương tính chứng tỏ bệnh lây lan, khả năng viêm gan mạn.
Rất tiếc, HBcAg còn gọi là HBV-DNA, không thử được ở VN vì phức tạp nhưng rất quan trọng vì xác nhận viêm gan mạn, cần sinh thiết gan mới làm được.
Bạn thử các kháng thể viêm gan như là AntiHBc(+) là tốt: cơ thể có kháng thể. AntiHBc(+) là chứng tỏ bệnh viêm gan cũ, bị viêm gan mạn khi thuộc loại IgG. AntiHBe(+)là bệnh viêm gan có khả năng không lây lan.
Cuối cùng là các men gan như SGOT, SGPT chứng tỏ thương tổn tế bào gan. Viêm gan cấp các men này gia tăng gấp 2-4 lần mức bình thường nhưng viêm gan mạn lại tăng ít hơn, đôi khi bình thường.
Diễn tiến sơ lược các bệnh nhân nhiễm siêu vi B:
Nhiễm siêu vi B hàng năm
4. Lây lan bệnh viêm gan siêu vi B
Qua 3 đường chủ yếu như bệnh AIDS là tình dục, máu và mẹ sang con. Nhưng bệnh viêm gan siêu vi B có thuốc chữa và thuốc ngừa khác hẳn với bệnh AIDS nên bạn thử máu có HBsAg+ đừng có hoang mang. Ắn uống vẫn bình thường, bệnh không lây lan qua tiếp xúc thông thường nhưng cần chích ngừa cho những người thân.
5. Thế nào là viêm gan mạn cần phải điều trị?
Người viêm gan mạn là người có tiền sử viêm gan nhiều tháng, nhiều năm trước đây có những dấu hiệu gợi ý như đau hạ sườn phải, mệt mỏi, ăn khó tiêu nhất là các chất mỡ. Thử máu có HBsAg + , HBeAg+ , AntiHBc+ và men gan hay SGOT SGPT tăng trên 50UI/ml. Tùy theo tình trạng tài chánh, BS có thể cho dùng các thuốc không chuyên biệt, giảm thiểu tổn thương tế bào gan như Nissel, Fortec, Legalon, hoặc thuốc thật đắt tiền như Interferon.
6. Người có HBsAg(+) đơn thuần, không triệu chứng gì cần điều trị không? Tại sao không điều trị?
Những người chỉ có HBsAg(+ ) thường là tình cờ phát hiện sau khi thử máu, coi cần phải chích ngừa không? Những người này không thể chích ngừa vì vô ích, không tác dụng, phí tiền. Những người này hoàn toàn khỏe mạnh, không có gì là người bệnh nếu không thử máu gọi là người lành mang mầm bệnh . Bạn vẫn có thể sống bình thường với siêu vi B đến suốt đời không sao cả. Có điều thỉnh thoảng nên thử men gan xem có viêm gan mạn mới cần điều trị. Siêu vi B sẽ ra khỏi cơ thể bạn một ngày nào đó khi bạn có sức đề kháng tốt. Bạn không cần phải ăn kiêng vì gan bạn không thương tổn, có điều nên chích ngừa cho những người thân tránh nhiễm thêm. Bạn không cần phải điều trị với bất cứ thuốc gì vì đến nay y học vẫn chưa khám phá ra thuốc nào diệt được siêu vi B thật sự ngay cả Interferon. Người ta đã thấy Interferon trị tốt viêm gan mạn đến 40-50% nhưng người lành mang mầm bệnh thuốc lại ít tác dụng. Bạn không bao giờ uống Liv 52, Legalon, Carsil nghĩ là thuốc ấy làm âm tính được mầm bệnh. Chỉ phí tiền và uống 5,6 tháng cũng không thay đổi gì tình trạng bạn được.
7. Interferon là gì?
Năm 1930 , người ta thấy các sinh vật nhiễm siêu vi đề kháng với một tình trạng cùng nhiễm bệnh với siêu vi thứ 2: hiện tượng này gọi là giao thoa siêu vi. Đến năm 1957, Isaacs và Lindermann chứng tỏ hiện tượng đó là do một chất hòa tan mà họ gọi là Interferon, có khả năng giúp sinh vật chống lại siêu vi.
9. Kỹ thuật bào chế ra Interferon phức tạp ra sao?
Hãng Roche đã sản xuất được Interferon bằng công nghệ di truyền từ năm 1984 và tung ra thị trường từ năm 1986 dưới tên Roferon A. Để có thuốc tinh khiết, biết bao nhà vi khuẩn học, sinh học phân tử, hóa protein, kỹ thuật gia lên men, các kỹ sư chế biến... phải qua 4 công đoạn chính với mỗi công đoạn vô cùng phức tạp: lấy ra gene sản xuất interferon ở tế bào người, gắn gen ấy vào vi khuẩn vô hại là Escherichia coli, quá trình ủ men để sản xuất tối đa, phân lập, tinh khiết, tìm ra công thức của Interferon.
10. Cơ chế hoạt động chống siêu vi của Interferon?
Interferon gắn chặt vào những thụ thể các tế bào chuyên biệt, kích hoạt tổng hợp một số protein. Trong đó men oligoadenylate synthetase kích hoạt men endoribonuclease phá hủy RNA của siêu vi và làm men mRNA không bền, khiến sinh sản của siêu vi ngừng lại. Interferon còn kích hoạt proteine kinase tăng gấp 10 lần, ức chế tổng hợp protein như thế các siêu vi mới không thành lập được. Interferon còn kích hoạt các đại thực bào, gia tăng hoạt tính các tế bào diệt, gia tăng sinh sản lymphô bào B và tổng hợp kháng thể IgG.
11. Giá thành của Roferon A ra sao?
Do kỹ thuật bào chế phức tạp nên giá thành của một lọ 4,5M khá mắc, trên nửa triệu đồng. Mỗi tuần phải tiêm 3 lọ như thế, một đợt điều trị viêm gan mãn từ 4-6 tháng tốn từ 30-50 triệu đồng. Một số tiền đúng là khó có bệnh nhân nào kham nổi lâu dài.
12. Điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính bằng Interferon
Viêm gan mạn tính: chỉ định dùng Interferon trước khi có dấu hiệu xơ gan, ung thư gan. Diệt trừ mầm bệnh siêu vi B chỉ có được trong một số nhỏ bệnh nhân. Sự biến mất HBcAg và HBeAg coi như có đáp ứng vì kèm theo giảm thương tổn hủy hoại viêm tế bào gan và giảm lây nhiễm. Sự tồn tại HBc Ag nhưng sự biến mất HBsAg và HBeAg không có nghĩa là bệnh còn tiến triển.
Interferon alpha hay Roferon A chứng tỏ ức chế sinh sản siêu vi B và điều trị lâu dài có thể làm thuyên giảm bệnh, mặc dù cơ chế hoạt động thật sự của Interferon còn chưa hiểu rõ tường tận. Điều không may cho chúng ta, việc điều trị Interferon có hiệu quả không đầy một nửa số ca viêm gan mạn 40%, tương đối đắt tiền không phải ai cũng kham nổi, phải tiêm không uống được và không phải không có tác dụng phụ. Liều lượng dùng còn chưa định rõ, do BS điều trị quyết định từ 5-10MU, 3 lần tiêm mỗi tuần và phải tiêm từ 4-6 tháng, có theo dõi sát.
Roferon A không nên dùng cho những người lành mang mầm bệnh hay chỉ có HBsAg+ vì Interferon đã chứng tỏ kém hiệu quả riêng trên mầm bệnh siêu vi B.
Nhiều tác dụng phụ của Interferon ghi nhận như hội chứng cảm cúm đôi khi sốt rất cao, rét run, nhức đầu tay chân, ăn không ngon, giảm cân, khó ngủ, kích thích, lo lắng, tóc rụng, giảm tiểu cầu. Bệnh nhân tuyệt đối không nên tự mua dùng thuốc, phải có BS chuyên khoa theo dõi chức năng gan, tế bào máu các kháng nguyên siêu vi B. Lưu ý là hai đến bốn tháng đầu điều trị các men gan có thể tăng nhưng sau đó giảm dần.
13. Chống chỉ định dùng Roferon
Dị ứng thuốc Interferon, bệnh tự miễn, suy tim, gan, thận nặng, cường hay suy tuyến giáp, bệnh động kinh, tâm thần.
14. Viêm gan siêu vi C ra sao?
Là viêm gan chủ yếu lây bằng truyền máu đến 90% . Có khoảng 1/2 là bị viêm gan mạn diễn tiến đến xơ gan, ung thư gan. Interferon chứng tỏ có tác dụng nhưng ít hơn với siêu vi B khoảng 20-30% hiệu quả.
Để kết luận, Interferon là thuốc mới chứng tỏ có hiệu quả trị viêm gan mạn do siêu vi B, C là hai loại nặng nhất. Nhưng hiệu quả chưa được mong muốn, không hoàn toàn dưới 50%. Giá thành cho một đợt điều trị từ 4-6 tháng tốn vài chục triệu đồng. Interferon không có chỉ định cho người lành mang mầm bệnh, hiệu quả thấp, phí tiền. Thuốc còn nhiều tác dụng phụ, đôi khi khá nguy hiểm nên cần điều trị trong BV có sự theo dõi sát của các BS chuyên khoa.
BS Dương minh Hoàng .
Để trả lời câu hỏi bạn chỉ có 3 đường (như là nhiễm HIV)
(1) Lâu qua đường máu : Như là truyền máu, dùng chung kim chích v.v... nhưng mà vì khả năng sống của Virus viêm gan B ngoài cơ thể lâu hơn HIV nên khả năng lây qua đường máu cao hơn .
(2) Lây qua đường sinh dục : Nếu chồng bạn đã nhiễm HBV (viêm gan siêu vi B) bạn cần chích ngừa đủ 3 mũi (khoảng 6 tháng) trước khi bạn quan hệ tình dục với chồng bạn mà không cần một biện pháp bảo vệ nào khác.
- Và khi bạn sinh con, em bé cần tiêm phòng HBV (bây giờ có NHà nước lo rồi qua chương trình tiêm chủng mở rộng, bạn chỉ cần tạo ra em bé mà thôi).
(3) Lây qua đường mẹ sang con: Đó là lý do phải chính ngừa em bé ở trên. Tuy nhiên khả năng lây đường này thấp, trừ khi có tổn thương bánh nhau trong quá trình thai nhi sinh ra.
* Bạn cũng cần biết là 10% nhân viên y tế nhiễm HBV, do đó ngành y tế chích ngừa BẮT BUỘT cho mọi nhân viên từ những năm 1995 trở đi. Và nhân viên y tế cũng sống khoẻ dù nguy cơ tiếp xúc của họ rất cao. Bạn HÃY YÊN TÂM đi.
1. Viêm gan siêu vi có mấy loại và nguy hiểm ra sao?
Có 5 loại bệnh viêm gan siêu vi được đánh bằng chữ: A, B, C, D, E. Còn một số khác chưa định rõ có thể gây viêm gan sau truyền máu, viêm gan mãn và xơ gan. Hai loại viêm gan típ A, E thường tự khỏi sau thể cấp, không gây ra viêm gan mãn hay xơ gan về sau này.
Trái lại, viêm gan B, C hay D có thể dẫn đến xơ gan, suy gan và ung thư gan. Khả năng gây tử vong của nhóm này cần thiết phải tìm ra phương thức trị liệu hữu hiệu. Trong số nhiều thuốc thử nghiệm duy chỉ có thuốc Interferon khảo cứu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, chứng tỏ hiệu quả phần nào trên diễn tiến bệnh viêm gan siêu vi mạn tính.
2. Diễn tiến bình thường của bệnh viêm gan siêu vi B?
Viêm gan siêu vi B phổ biến trên khắp thế giới với khoảng 300 triệu người mắc bệnh, 2 triệu người chết hàng năm. Tần suất cao ở Trung Phi và Nam Mỹ, Âu Châu: các nước cạnh biển Địa Trung Hải như Italia, Hy Lạp, Ai Cập. Nhưng các nước Bắc Âu tần suất bệnh này rất thấp 0,1-0,3%.
Tổng quát là vào khoảng 5-10% diễn tiến dẫn đến viêm gan mạn, 50% những người này chết vì xơ gan, ung thư gan. Ở nước ta, tần suất nhiễm siêu vi B lên khá cao từ 10-15% tùy theo quần thể, nghề nghiệp.
Viêm gan siêu vi B gây ra bởi siêu vi B, một virus DNA có vỏ, một khi tấn công tế bào gan, gây hủy hoại và viêm. Nhiễm trùng có thể cấp hay mạn đi từ nhiễm trùng không triệu chứng tự khỏi đến bệnh rất nặng: thể tối cấp rất hiếm, có kết cục tử vong.
Viêm gan siêu vi B cấp có HBsAg(+), men gan tăng cao 3-4 lần bình thường nhưng tự khỏi trong 90-95% bệnh nhân, có sự biến mất HBsAg và tế bào gan lành lại sau 4-6 tuần lễ mắc bệnh. Khoảng 5-10% viêm gan B lại diễn tiến thành thể mạn tính có HBsAg(+) lâu dài trong máu, một số ít diễn tiến viêm gan mạn có xét nghiệm máu HBsAg(+), HBc(+): khó làm ở nước ta, men gan SGOT, SGPT tăng nhẹ, HBeAg(+).
Trái lại những người chỉ có một xét HBsAg(+) lâu dài, có men gan SGOT, SGPT bình thường dưới 50UI, hoàn toàn không triệu chứng gọi là người lành mang mầm bệnh, không cần phải trị nhưng cần phải tiêm ngừa cho những người thân sống chung trong gia đình .
3. Bệnh nhân nào nghi ngờ viêm gan siêu vi B cần thử máu những gì, ý nghĩa ra sao?
Đầu tiên HBsAg(+) chứng tỏ nhiễm siêu vi B chứ không phải mắc bệnh. Nồng độ cao hay thấp không chứng tỏ bệnh nặng hay nhẹ. Viêm gan tối cấp, đa số tử vong có nồng độ HBsAg rất thấp chứng tỏ cơ chế bệnh là gia tăng đáp ứng miễn dịch với siêu vi B.
Bạn nên thử thêm HBeAg, nếu dương tính chứng tỏ bệnh lây lan, khả năng viêm gan mạn.
Rất tiếc, HBcAg còn gọi là HBV-DNA, không thử được ở VN vì phức tạp nhưng rất quan trọng vì xác nhận viêm gan mạn, cần sinh thiết gan mới làm được.
Bạn thử các kháng thể viêm gan như là AntiHBc(+) là tốt: cơ thể có kháng thể. AntiHBc(+) là chứng tỏ bệnh viêm gan cũ, bị viêm gan mạn khi thuộc loại IgG. AntiHBe(+)là bệnh viêm gan có khả năng không lây lan.
Cuối cùng là các men gan như SGOT, SGPT chứng tỏ thương tổn tế bào gan. Viêm gan cấp các men này gia tăng gấp 2-4 lần mức bình thường nhưng viêm gan mạn lại tăng ít hơn, đôi khi bình thường.
Diễn tiến sơ lược các bệnh nhân nhiễm siêu vi B:
Nhiễm siêu vi B hàng năm
4. Lây lan bệnh viêm gan siêu vi B
Qua 3 đường chủ yếu như bệnh AIDS là tình dục, máu và mẹ sang con. Nhưng bệnh viêm gan siêu vi B có thuốc chữa và thuốc ngừa khác hẳn với bệnh AIDS nên bạn thử máu có HBsAg+ đừng có hoang mang. Ắn uống vẫn bình thường, bệnh không lây lan qua tiếp xúc thông thường nhưng cần chích ngừa cho những người thân.
5. Thế nào là viêm gan mạn cần phải điều trị?
Người viêm gan mạn là người có tiền sử viêm gan nhiều tháng, nhiều năm trước đây có những dấu hiệu gợi ý như đau hạ sườn phải, mệt mỏi, ăn khó tiêu nhất là các chất mỡ. Thử máu có HBsAg + , HBeAg+ , AntiHBc+ và men gan hay SGOT SGPT tăng trên 50UI/ml. Tùy theo tình trạng tài chánh, BS có thể cho dùng các thuốc không chuyên biệt, giảm thiểu tổn thương tế bào gan như Nissel, Fortec, Legalon, hoặc thuốc thật đắt tiền như Interferon.
6. Người có HBsAg(+) đơn thuần, không triệu chứng gì cần điều trị không? Tại sao không điều trị?
Những người chỉ có HBsAg(+ ) thường là tình cờ phát hiện sau khi thử máu, coi cần phải chích ngừa không? Những người này không thể chích ngừa vì vô ích, không tác dụng, phí tiền. Những người này hoàn toàn khỏe mạnh, không có gì là người bệnh nếu không thử máu gọi là người lành mang mầm bệnh . Bạn vẫn có thể sống bình thường với siêu vi B đến suốt đời không sao cả. Có điều thỉnh thoảng nên thử men gan xem có viêm gan mạn mới cần điều trị. Siêu vi B sẽ ra khỏi cơ thể bạn một ngày nào đó khi bạn có sức đề kháng tốt. Bạn không cần phải ăn kiêng vì gan bạn không thương tổn, có điều nên chích ngừa cho những người thân tránh nhiễm thêm. Bạn không cần phải điều trị với bất cứ thuốc gì vì đến nay y học vẫn chưa khám phá ra thuốc nào diệt được siêu vi B thật sự ngay cả Interferon. Người ta đã thấy Interferon trị tốt viêm gan mạn đến 40-50% nhưng người lành mang mầm bệnh thuốc lại ít tác dụng. Bạn không bao giờ uống Liv 52, Legalon, Carsil nghĩ là thuốc ấy làm âm tính được mầm bệnh. Chỉ phí tiền và uống 5,6 tháng cũng không thay đổi gì tình trạng bạn được.
7. Interferon là gì?
Năm 1930 , người ta thấy các sinh vật nhiễm siêu vi đề kháng với một tình trạng cùng nhiễm bệnh với siêu vi thứ 2: hiện tượng này gọi là giao thoa siêu vi. Đến năm 1957, Isaacs và Lindermann chứng tỏ hiện tượng đó là do một chất hòa tan mà họ gọi là Interferon, có khả năng giúp sinh vật chống lại siêu vi.
9. Kỹ thuật bào chế ra Interferon phức tạp ra sao?
Hãng Roche đã sản xuất được Interferon bằng công nghệ di truyền từ năm 1984 và tung ra thị trường từ năm 1986 dưới tên Roferon A. Để có thuốc tinh khiết, biết bao nhà vi khuẩn học, sinh học phân tử, hóa protein, kỹ thuật gia lên men, các kỹ sư chế biến... phải qua 4 công đoạn chính với mỗi công đoạn vô cùng phức tạp: lấy ra gene sản xuất interferon ở tế bào người, gắn gen ấy vào vi khuẩn vô hại là Escherichia coli, quá trình ủ men để sản xuất tối đa, phân lập, tinh khiết, tìm ra công thức của Interferon.
10. Cơ chế hoạt động chống siêu vi của Interferon?
Interferon gắn chặt vào những thụ thể các tế bào chuyên biệt, kích hoạt tổng hợp một số protein. Trong đó men oligoadenylate synthetase kích hoạt men endoribonuclease phá hủy RNA của siêu vi và làm men mRNA không bền, khiến sinh sản của siêu vi ngừng lại. Interferon còn kích hoạt proteine kinase tăng gấp 10 lần, ức chế tổng hợp protein như thế các siêu vi mới không thành lập được. Interferon còn kích hoạt các đại thực bào, gia tăng hoạt tính các tế bào diệt, gia tăng sinh sản lymphô bào B và tổng hợp kháng thể IgG.
11. Giá thành của Roferon A ra sao?
Do kỹ thuật bào chế phức tạp nên giá thành của một lọ 4,5M khá mắc, trên nửa triệu đồng. Mỗi tuần phải tiêm 3 lọ như thế, một đợt điều trị viêm gan mãn từ 4-6 tháng tốn từ 30-50 triệu đồng. Một số tiền đúng là khó có bệnh nhân nào kham nổi lâu dài.
12. Điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính bằng Interferon
Viêm gan mạn tính: chỉ định dùng Interferon trước khi có dấu hiệu xơ gan, ung thư gan. Diệt trừ mầm bệnh siêu vi B chỉ có được trong một số nhỏ bệnh nhân. Sự biến mất HBcAg và HBeAg coi như có đáp ứng vì kèm theo giảm thương tổn hủy hoại viêm tế bào gan và giảm lây nhiễm. Sự tồn tại HBc Ag nhưng sự biến mất HBsAg và HBeAg không có nghĩa là bệnh còn tiến triển.
Interferon alpha hay Roferon A chứng tỏ ức chế sinh sản siêu vi B và điều trị lâu dài có thể làm thuyên giảm bệnh, mặc dù cơ chế hoạt động thật sự của Interferon còn chưa hiểu rõ tường tận. Điều không may cho chúng ta, việc điều trị Interferon có hiệu quả không đầy một nửa số ca viêm gan mạn 40%, tương đối đắt tiền không phải ai cũng kham nổi, phải tiêm không uống được và không phải không có tác dụng phụ. Liều lượng dùng còn chưa định rõ, do BS điều trị quyết định từ 5-10MU, 3 lần tiêm mỗi tuần và phải tiêm từ 4-6 tháng, có theo dõi sát.
Roferon A không nên dùng cho những người lành mang mầm bệnh hay chỉ có HBsAg+ vì Interferon đã chứng tỏ kém hiệu quả riêng trên mầm bệnh siêu vi B.
Nhiều tác dụng phụ của Interferon ghi nhận như hội chứng cảm cúm đôi khi sốt rất cao, rét run, nhức đầu tay chân, ăn không ngon, giảm cân, khó ngủ, kích thích, lo lắng, tóc rụng, giảm tiểu cầu. Bệnh nhân tuyệt đối không nên tự mua dùng thuốc, phải có BS chuyên khoa theo dõi chức năng gan, tế bào máu các kháng nguyên siêu vi B. Lưu ý là hai đến bốn tháng đầu điều trị các men gan có thể tăng nhưng sau đó giảm dần.
13. Chống chỉ định dùng Roferon
Dị ứng thuốc Interferon, bệnh tự miễn, suy tim, gan, thận nặng, cường hay suy tuyến giáp, bệnh động kinh, tâm thần.
14. Viêm gan siêu vi C ra sao?
Là viêm gan chủ yếu lây bằng truyền máu đến 90% . Có khoảng 1/2 là bị viêm gan mạn diễn tiến đến xơ gan, ung thư gan. Interferon chứng tỏ có tác dụng nhưng ít hơn với siêu vi B khoảng 20-30% hiệu quả.
Để kết luận, Interferon là thuốc mới chứng tỏ có hiệu quả trị viêm gan mạn do siêu vi B, C là hai loại nặng nhất. Nhưng hiệu quả chưa được mong muốn, không hoàn toàn dưới 50%. Giá thành cho một đợt điều trị từ 4-6 tháng tốn vài chục triệu đồng. Interferon không có chỉ định cho người lành mang mầm bệnh, hiệu quả thấp, phí tiền. Thuốc còn nhiều tác dụng phụ, đôi khi khá nguy hiểm nên cần điều trị trong BV có sự theo dõi sát của các BS chuyên khoa.
BS Dương minh Hoàng .
Để trả lời câu hỏi bạn chỉ có 3 đường (như là nhiễm HIV)
(1) Lâu qua đường máu : Như là truyền máu, dùng chung kim chích v.v... nhưng mà vì khả năng sống của Virus viêm gan B ngoài cơ thể lâu hơn HIV nên khả năng lây qua đường máu cao hơn .
(2) Lây qua đường sinh dục : Nếu chồng bạn đã nhiễm HBV (viêm gan siêu vi B) bạn cần chích ngừa đủ 3 mũi (khoảng 6 tháng) trước khi bạn quan hệ tình dục với chồng bạn mà không cần một biện pháp bảo vệ nào khác.
- Và khi bạn sinh con, em bé cần tiêm phòng HBV (bây giờ có NHà nước lo rồi qua chương trình tiêm chủng mở rộng, bạn chỉ cần tạo ra em bé mà thôi).
(3) Lây qua đường mẹ sang con: Đó là lý do phải chính ngừa em bé ở trên. Tuy nhiên khả năng lây đường này thấp, trừ khi có tổn thương bánh nhau trong quá trình thai nhi sinh ra.
* Bạn cũng cần biết là 10% nhân viên y tế nhiễm HBV, do đó ngành y tế chích ngừa BẮT BUỘT cho mọi nhân viên từ những năm 1995 trở đi. Và nhân viên y tế cũng sống khoẻ dù nguy cơ tiếp xúc của họ rất cao. Bạn HÃY YÊN TÂM đi.
Viêm gan loại B trước đây được gọi là viêm gan huyết thanh vì khi đó ta tưởng là bệnh chỉ truyền khi nhận máu, khi dùng cùng kim chích nhiễm độc, khi xâm da, xỏ lỗ tai. Ngày nay khoa học đã chứng minh là siêu vi trùng bệnh viêm này có trong nước miếng, nước mắt, tinh dịch người bệnh và có thể truyền từ người này qua người khác do hành động ái ân. Bệnh gây những triệu chứng giống như bị cảm gây ung thư thứ hai, sau thuốc lá, nó dễ lây hơn bệnh HIV. Mỗi năm riêng tại Hoa Kỳ có cả trên 200.000 người mắc bệnh và có tới trên 4.000 người chết vì các bệnh liên hệ tới viêm gan B.
Viêm gan B lan truyền cách nào? Siêu vi trùng viêm gan truyền bằng nhiều cách.
Qua kim nhiễm độc khi dân nghiền dùng chung kim chích hay khi xâm hình trên da. Do hành động tình dục, hoặc đụng chạm vào mắt, miệng, vết đứt trên da. Khi dùng chung đũa bát, bàn chải đánh răng, dao cạo râu với người bệnh vì siêu trùng có thể sống cả tháng trên những dụng cụ này.
Thời gian từ khi nhiễm bệnh tới khi có triệu chứng kéo dài tới từ bốn mươi ngày tới sáu tháng, trung bình là hai tháng. Dây là thời kỳ bệnh lây mạnh nhất.
Sau đây là những nguy cơ có thể đưa tới viêm gan B: làm việc chung đụng với máu hoặc dung dịch lỏng của cơ thể người bị viêm gan B; dân nghiền chích thuốc; giao hợp với nhiều người bị bệnh; xỏ lổ tai hay xâm da; sống chung với người bị viêm gan B; du lịch tới vài vùng trên thế giới như châu Phi, Đông Nam Á câu, Nam Mỹ: người lọc máu vì thận suy hay nhận sang máu. Như vậy các nhân viên y tế, nhân viên nhà trường, phòng mạch y nha sĩ, phòng thí nghiệm tiếp xúc với người bệnh viêm gan B đều có thể bị lây bệnh.
Triệu chứng của viêm gan B - có đến một nửa số người mắc viêm gan B mà không có triệu chứng gì, nhất là ở trẻ em. Còn laại thì triệu chứng giống như bị cảm cúm : mệt mỏi, ăn mất ngon, suy yếu cơ thể, ói mửa, nóng sốt, nhức đầu, đau nhức toàn thân, da ngứa nổi mần, nước tiểu vàng, phân trắng, vàng da và tròng con mắt.
Thường thường bệnh kéo dài từ 4 đến 8 tuần lễ rồi tự thuyên giảm không cần chữa gì đặc biệt, nếu không có biến chứng hay hậu quả xấu như viêm gan kinh niên (10%), suy gan, trai gan đôi khi đưa đến ung thư gan. Người bị viêm kinh niên ít có triệu chứng bệnh nhưng vẫn có thể truyền bệnh được.
Viêm gan B có thể ngăn ngừa được bằng áp dụng vệ sinh cá nhân, cẩn thận đề phòng khi tiếp xúc với người bệnh có bệnh, chích ngừa. Chích ngừa được áp dụng cho mọi lứa tuổi, ngay cả trẻ em mới sanh, nhất là ở người có nhiều nguy cơ nhiễm bệnh như nhân viên y tế, người hay lang chạ tình dục, người đồng tính tuyến ái. Cần chích ba lần theo định kỳ để được miễn nhiễm.
Viêm gan B lan truyền cách nào? Siêu vi trùng viêm gan truyền bằng nhiều cách.
Qua kim nhiễm độc khi dân nghiền dùng chung kim chích hay khi xâm hình trên da. Do hành động tình dục, hoặc đụng chạm vào mắt, miệng, vết đứt trên da. Khi dùng chung đũa bát, bàn chải đánh răng, dao cạo râu với người bệnh vì siêu trùng có thể sống cả tháng trên những dụng cụ này.
Thời gian từ khi nhiễm bệnh tới khi có triệu chứng kéo dài tới từ bốn mươi ngày tới sáu tháng, trung bình là hai tháng. Dây là thời kỳ bệnh lây mạnh nhất.
Sau đây là những nguy cơ có thể đưa tới viêm gan B: làm việc chung đụng với máu hoặc dung dịch lỏng của cơ thể người bị viêm gan B; dân nghiền chích thuốc; giao hợp với nhiều người bị bệnh; xỏ lổ tai hay xâm da; sống chung với người bị viêm gan B; du lịch tới vài vùng trên thế giới như châu Phi, Đông Nam Á câu, Nam Mỹ: người lọc máu vì thận suy hay nhận sang máu. Như vậy các nhân viên y tế, nhân viên nhà trường, phòng mạch y nha sĩ, phòng thí nghiệm tiếp xúc với người bệnh viêm gan B đều có thể bị lây bệnh.
Triệu chứng của viêm gan B - có đến một nửa số người mắc viêm gan B mà không có triệu chứng gì, nhất là ở trẻ em. Còn laại thì triệu chứng giống như bị cảm cúm : mệt mỏi, ăn mất ngon, suy yếu cơ thể, ói mửa, nóng sốt, nhức đầu, đau nhức toàn thân, da ngứa nổi mần, nước tiểu vàng, phân trắng, vàng da và tròng con mắt.
Thường thường bệnh kéo dài từ 4 đến 8 tuần lễ rồi tự thuyên giảm không cần chữa gì đặc biệt, nếu không có biến chứng hay hậu quả xấu như viêm gan kinh niên (10%), suy gan, trai gan đôi khi đưa đến ung thư gan. Người bị viêm kinh niên ít có triệu chứng bệnh nhưng vẫn có thể truyền bệnh được.
Viêm gan B có thể ngăn ngừa được bằng áp dụng vệ sinh cá nhân, cẩn thận đề phòng khi tiếp xúc với người bệnh có bệnh, chích ngừa. Chích ngừa được áp dụng cho mọi lứa tuổi, ngay cả trẻ em mới sanh, nhất là ở người có nhiều nguy cơ nhiễm bệnh như nhân viên y tế, người hay lang chạ tình dục, người đồng tính tuyến ái. Cần chích ba lần theo định kỳ để được miễn nhiễm.
BS. NGUYỄN ĐỨC Ý ( ykhoa.net )
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi lĩnh vực Chăm sóc sức khỏe
Rao vặt Siêu Vip