
Hạn ngạch thuế quan là gì?

HNTQ là một cơ chế hạn ngạch nhập khẩu đối với một khối lượng hàng nhập khẩu nhất định ở một mức thuế suất nhất định. Một khi khối lượng hạn ngạch này đã được nhập khẩu hết thì bất kỳ lượng hàng nhập khẩu bổ sung nào cũng sẽ phải chịu mức thuế suất cao hơn. Thoạt nhìn thì HNTQ có vẻ không khác mấy so với khái niệm “hạn ngạch nhập khẩu” thuần tuý trước kia. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa HNTQ và hạn ngạch nhập khẩu thông thường nằm ở chỗ hạn ngạch thông thường không cho phép nhập khẩu thêm ngoài khối lượng hạn ngạch đã ấn định, nghĩa là nếu hạn ngạch nhập khẩu quy định khối lượng hạn ngạch là X thì khối lượng hàng nhập khẩu tối đa có thể nhập khẩu vào trong nước chỉ có thể bằng X. Việc tăng khối lượng nhập khẩu quá mức ấn định X là hoàn toàn không thể xảy ra. Trong khi đó về nguyên tắc, HNTQ cho phép hàng nhập khẩu có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường hơn so với hạn ngạch thông thường. Xét dưới góc độ pháp lý thì HNTQ không bị coi là hạn chế định lượng vì không hạn chế khối lượng nhập khẩu. Với HNTQ chỉ cần nộp đủ thuế thì người ta có thể nhập khẩu với số lượng bao nhiêu tuỳ thích, tất nhiên là nếu số lượng nhập khẩu vượt quá lượng hạn ngạch X quy định thì sẽ phải chịu thuế suất ngoài hạn ngạch. Thật vậy, nếu giá trong nước cao hơn giá quốc tế cộng với thuế ngoài hạn ngạch phải nộp thì nhà nhập khẩu có thể thu lợi kể cả khi đã phải nộp thuế ngoài hạn ngạch và khi đó khối lượng nhập khẩu theo cơ chế HNTQ sẽ khác với khối lượng nhập khẩu theo hạn ngạch thông thường. Như vậy, có thể tạm hiểu rằng hạn ngạch nhập khẩu thông thường là một cơ chế cứng với khối lượng nhập khẩu cho phép là bất biến còn hạn ngạch thuế quan là một cơ chế mềm với khối lượng nhập khẩu tương đối thoải mái tự do nhưng tuân theo thang thuế quan, trong đó ở nấc thang thuế quan thấp là khối lượng nhập khẩu trong mức hạn ngạch thuế quan còn ở nấc thang thuế quan cao hơn là khối lượng nhập khẩu ngoài mức hạn ngạch thuế quan.
Chính nhờ vào điểm khác biệt cơ bản này, HNTQ xét về lý thuyết thì ít mang tính hạn chế hơn so với hạn ngạch nhập khẩu truyền thống. Tuy nhiên, nếu “thuế suất ngoài hạn ngạch” được cố tình quy định ở mức quá cao khiến cho hàng nhập khẩu vượt quá lượng hạn ngạch thuế quan thực tế không thể xâm nhập thị trường do không đem lại lợi nhuận cho nhà nhập khẩu thì khi ấy HNTQ cũng chỉ dẫn tới khối lượng nhập khẩu tương tự như biện pháp hạn ngạch nhập khẩu truyền thống đặt ra. Trong những trường hợp này, HNTQ rõ ràng đã ngầm hạn chế nhập khẩu và do vậy, HNTQ hoạt động giống hệt như hạn ngạch nhập khẩu thông thường. Ngoài ra, tính chất hạn chế thương mại của HNTQ cũng còn phụ thuộc vào những mối liên hệ rất phức tạp giữa vô số yếu tố kinh tế và chính trị, quan liệu đan xen lẫn nhau.
HNTQ giống với thuế quan thông thường ở chỗ hạn chế thương mại bằng tác động làm tăng giá hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng kinh tế của HNTQ nếu xác định một cách chính xác thì lại phụ thuộc vào giá thế giới, vào nhu cầu trong nước đối với hàng nhập khẩu, vào quy mô (lượng) HNTQ và vào chênh lệch giữa thuế suất trong và ngoài hạn ngạch.
Theo Nguyễn Hải Yến
Vụ CSTM Đa biên
Bộ Thương mại
Tháng 8/2005


