Câu hỏi

20/05/2013 11:18
Phật Giáo bắt nguồn từ đâu?
Danh sách câu trả lời (1)

Nói đến nguồn gốc của đạo Phật thì chắc rằng tất cả Tăng Ni đều biết đức Phật là một Thái tử ở Ấn Độ xuất gia đi tu, bỏ cả sự nghiệp thế gian để tìm đạo giải thoát. Khi đã đạt được đạo quả rồi Ngài truyền giáo cho đến tận ngày nay gần như cả thế giới đều biết.
Dưới cội bồ-đề (tất-bát-la) Ngài lấy một ít cỏ trải tòa ngồi, khi trải cỏ xong, Ngài chỉ cây tất-bát-la thệ nguyện rằng: “Ta ngồi dưới cội cây này nếu không đạt được đạo thì dù xương tan thịt nát cũng không rời khỏi nơi đây.” Vì có lời thệ nguyện mãnh liệt đó nên suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội bồ-đề, Ngài liền được giác ngộ.
Nói đức Phật thành Phật là thành cái gì? Đây là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. Khi Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề đến đêm thứ bốn mươi chín, từ đầu hôm đến hết canh một Ngài chứng được Túc mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là sáng. Sáng ra được những việc trong nhiều đời nhiều kiếp về trước, tại sao Ngài sáng ra lẽ đó? Bởi khi Ngài đi tu, vì muốn giải thoát sanh tử nên Ngài đặt ra vấn đề: Trước khi ta có mặt ở đây ta là gì, ở đâu đến? Sau khi chết ta sẽ về đâu? Muốn dứt hết cội gốc sanh tử này ta phải làm sao? Đó là ba nghi vấn về số phận con người của Ngài.
Tới canh ba Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy suốt được những vật hết sức nhỏ nhiệm, hết sức xa xôi, quá tầm thấy biết của người thường. Thấy rõ con người sau khi chết bị nghiệp dẫn đi luân hồi trong sáu đường. Trong kinh kể sau khi Phật chứng được Thiên nhãn minh
Đến khi sao Mai vừa mọc Ngài bừng ngộ chứng được Lậu tận minh. Lậu là rớt, tận là sạch, nghĩa là sạch hết, không còn mầm rơi rớt trong sanh tử nữa, tức là không còn rơi lại trong tam giới lục đạo. Như vậy sau khi chứng được Lậu tận minh, Ngài đã đạt được mục đích giải thoát sanh tử. Ngài biết rõ nguyên nhân nào dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử và làm sao dứt sạch được nguyên nhân đi trong luân hồi sanh tử đó, đây gọi là chứng được Lậu tận minh. Khi chứng được minh này, đức Phật tuyên bố Ngài hoàn toàn giác ngộ, thành Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề, đã quyết định trở về với xã hội và cuộc sống của con người bình thường. Mục đích giáo hóa của Đức Phật nhằm đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con ngờưi. Những gì đức Phật giảng dạy đều bắt nguồn từ cuộc sống, từ hoàn cảnh và con người c ụ thể. Cũng vậy đức Phật chế ra giới luật nhằm xây dựng một nền đạo đức làm nền tảng cho sự thăng tiến tâm linh và hạnh phúc cho nhân loại.
Tại vườn Lộc Uyển, đức Phật chuyển bánh xe pháp luân lần đầu tiên trên thế gian này. Sau bài thuyết pháp ấy, 5 vị Sa môn nhóm Tôn giả Kiều Trần Như là những người bạn cũ của Ngài từ bỏ con đường tu khổ hạnh ép xác, cả 5 vị xin qui y và sau đó đều đắc quả A La Hán là quả vị tối thượng trong hành đệ tử Phật. Đó là 5 vị đệ tử đầu tiên xuất gia của Phật và cũng là giáo đoàn Tăng già Phật giáo đầu tiên, cơ sở cho giáo hội sau này.
Từ đó, bất cứ ở đâu đức Phật đặt chân đến đều để lại dấu ấn của từ bi và trí tuệ. với nhân cách siêu việt và lòng từ vô lượng, Ngài đã thu phuc#273;ược lòng người. Do đó, đệ tử của Ngài (xuất gia cũng như tại gia) mỗi ngày mỗi đông.
Vào năm thứ 3 sau ngày đức Phật thành đạo, Vua Bimbisàra nước Ma Kiệt Đà sau khi quy y đã dâng cúng Phật rừng Trúc Lâm. Trong đó nhà vua cho xây cất đầy đủ tiện nghi để dùng làm tịnh xá. Có thể nói đây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn mới, một manh nha của việc cư trú có tính cách định cư, khác với lối sống lang thanh của các đoàn Sa môn lúc bấy giờ.
Trong mùa an cư này, cả 1000 cị tỷ kheo cùng chung sống tại Trúc Lâm là một đặc điểm khác biệt đối với các đoàn Sa môn khác thời bấy giờ. Có lẽ do sự chung giữa các Tỳ kheo, một ít giới luật có tính các nhẹ nhàng với hình thức "điều nên làm và điều không nên làm" được đức Phật nêu ra.
Qua kinh nghiệm cuộc sống và sự chúng nghiệm tâm linh trên cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc, dựa vào hoàn cảnh, căn tánh và mục đích hướng đến cuộc sống khác nhau của chúng sanh, đức Phật đã thi thiết ra nhiều cấp độ, chuẩn mực đạo đức: Đối với hàng Xuất gia có 250 giới của Tỳ kheo, 348 giới của Tỳ kheo ni; đối với hàng tại gia có 5 giới và 10 thiện giới, đồng thời có 58 giới Bồ tát cho cả Xuất gia và tại gia Bồ tát.
Sự thật hiển nhiên, Giới luật của đạo Phật không phải là những giáo điều được mặc khải bởi thần linh hay một đáng siêu nhiên nào; nó cũng không phải là những điều do đức Phật tự ý đặt ra để răn đe hay ràng buộc tín đồ. Vì lòng từ bi, vì hạnh phúc cho chúng sanh đức Phật chế ra giới luật, mỗi giới luật được chế ra, đức phật dều dựa vào 3 điều kiện thực tế và khách quan nhất đó là: Thời-Xứ-Vị, tức là những qui luật phép tắc do Phật chế định đều là những qui định được đề ra sau khi các sự kiện đã phát sinh.
Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy lấy một ví dụ, như giới"Tam y" chẳng hạn, tức theo luật mỗi Tỳ kheo phải có đủ 3 tấm áo: Thượng-Trung-Hạ. Nguyên nhân đức Phật chế ra 3 y là vì ngày xưa Ngài du hành từ Phệ Xá Ly đến Bạt Da La Tháp, nữa đường gặp thời tiết giá buốt, vào ban đêm Ngài phải mặc 3 tấm áo mới đủ ấm, do kinh nghiệm ấy mà Phật chế giới Tam y.
Qua đó cho ta thấy mỗi giới luật đức Phật chế ra đều dựa trên sự kiện thực tế của cuộc sống. Ngài không tự nhiên đặt ra nhiều giới luật bắt chúng ta hành trì, chính là do hạnh nghiệp hữu lậu của chúng sanh mà đức Phật chế ra giới luật nhằm ngăn ngừa các ác bất thiện pháp, giúp hành giả được thanh tịnh, làm nền tảng cho sự phát triển tâm linh thẳng đến niềm hạnnh phúc an vui tịch tịnh.
Dưới cội bồ-đề (tất-bát-la) Ngài lấy một ít cỏ trải tòa ngồi, khi trải cỏ xong, Ngài chỉ cây tất-bát-la thệ nguyện rằng: “Ta ngồi dưới cội cây này nếu không đạt được đạo thì dù xương tan thịt nát cũng không rời khỏi nơi đây.” Vì có lời thệ nguyện mãnh liệt đó nên suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội bồ-đề, Ngài liền được giác ngộ.
Nói đức Phật thành Phật là thành cái gì? Đây là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. Khi Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề đến đêm thứ bốn mươi chín, từ đầu hôm đến hết canh một Ngài chứng được Túc mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là sáng. Sáng ra được những việc trong nhiều đời nhiều kiếp về trước, tại sao Ngài sáng ra lẽ đó? Bởi khi Ngài đi tu, vì muốn giải thoát sanh tử nên Ngài đặt ra vấn đề: Trước khi ta có mặt ở đây ta là gì, ở đâu đến? Sau khi chết ta sẽ về đâu? Muốn dứt hết cội gốc sanh tử này ta phải làm sao? Đó là ba nghi vấn về số phận con người của Ngài.
Tới canh ba Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy suốt được những vật hết sức nhỏ nhiệm, hết sức xa xôi, quá tầm thấy biết của người thường. Thấy rõ con người sau khi chết bị nghiệp dẫn đi luân hồi trong sáu đường. Trong kinh kể sau khi Phật chứng được Thiên nhãn minh
Đến khi sao Mai vừa mọc Ngài bừng ngộ chứng được Lậu tận minh. Lậu là rớt, tận là sạch, nghĩa là sạch hết, không còn mầm rơi rớt trong sanh tử nữa, tức là không còn rơi lại trong tam giới lục đạo. Như vậy sau khi chứng được Lậu tận minh, Ngài đã đạt được mục đích giải thoát sanh tử. Ngài biết rõ nguyên nhân nào dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử và làm sao dứt sạch được nguyên nhân đi trong luân hồi sanh tử đó, đây gọi là chứng được Lậu tận minh. Khi chứng được minh này, đức Phật tuyên bố Ngài hoàn toàn giác ngộ, thành Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề, đã quyết định trở về với xã hội và cuộc sống của con người bình thường. Mục đích giáo hóa của Đức Phật nhằm đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con ngờưi. Những gì đức Phật giảng dạy đều bắt nguồn từ cuộc sống, từ hoàn cảnh và con người c ụ thể. Cũng vậy đức Phật chế ra giới luật nhằm xây dựng một nền đạo đức làm nền tảng cho sự thăng tiến tâm linh và hạnh phúc cho nhân loại.
Tại vườn Lộc Uyển, đức Phật chuyển bánh xe pháp luân lần đầu tiên trên thế gian này. Sau bài thuyết pháp ấy, 5 vị Sa môn nhóm Tôn giả Kiều Trần Như là những người bạn cũ của Ngài từ bỏ con đường tu khổ hạnh ép xác, cả 5 vị xin qui y và sau đó đều đắc quả A La Hán là quả vị tối thượng trong hành đệ tử Phật. Đó là 5 vị đệ tử đầu tiên xuất gia của Phật và cũng là giáo đoàn Tăng già Phật giáo đầu tiên, cơ sở cho giáo hội sau này.
Từ đó, bất cứ ở đâu đức Phật đặt chân đến đều để lại dấu ấn của từ bi và trí tuệ. với nhân cách siêu việt và lòng từ vô lượng, Ngài đã thu phuc#273;ược lòng người. Do đó, đệ tử của Ngài (xuất gia cũng như tại gia) mỗi ngày mỗi đông.
Vào năm thứ 3 sau ngày đức Phật thành đạo, Vua Bimbisàra nước Ma Kiệt Đà sau khi quy y đã dâng cúng Phật rừng Trúc Lâm. Trong đó nhà vua cho xây cất đầy đủ tiện nghi để dùng làm tịnh xá. Có thể nói đây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn mới, một manh nha của việc cư trú có tính cách định cư, khác với lối sống lang thanh của các đoàn Sa môn lúc bấy giờ.
Trong mùa an cư này, cả 1000 cị tỷ kheo cùng chung sống tại Trúc Lâm là một đặc điểm khác biệt đối với các đoàn Sa môn khác thời bấy giờ. Có lẽ do sự chung giữa các Tỳ kheo, một ít giới luật có tính các nhẹ nhàng với hình thức "điều nên làm và điều không nên làm" được đức Phật nêu ra.
Qua kinh nghiệm cuộc sống và sự chúng nghiệm tâm linh trên cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc, dựa vào hoàn cảnh, căn tánh và mục đích hướng đến cuộc sống khác nhau của chúng sanh, đức Phật đã thi thiết ra nhiều cấp độ, chuẩn mực đạo đức: Đối với hàng Xuất gia có 250 giới của Tỳ kheo, 348 giới của Tỳ kheo ni; đối với hàng tại gia có 5 giới và 10 thiện giới, đồng thời có 58 giới Bồ tát cho cả Xuất gia và tại gia Bồ tát.
Sự thật hiển nhiên, Giới luật của đạo Phật không phải là những giáo điều được mặc khải bởi thần linh hay một đáng siêu nhiên nào; nó cũng không phải là những điều do đức Phật tự ý đặt ra để răn đe hay ràng buộc tín đồ. Vì lòng từ bi, vì hạnh phúc cho chúng sanh đức Phật chế ra giới luật, mỗi giới luật được chế ra, đức phật dều dựa vào 3 điều kiện thực tế và khách quan nhất đó là: Thời-Xứ-Vị, tức là những qui luật phép tắc do Phật chế định đều là những qui định được đề ra sau khi các sự kiện đã phát sinh.
Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy lấy một ví dụ, như giới"Tam y" chẳng hạn, tức theo luật mỗi Tỳ kheo phải có đủ 3 tấm áo: Thượng-Trung-Hạ. Nguyên nhân đức Phật chế ra 3 y là vì ngày xưa Ngài du hành từ Phệ Xá Ly đến Bạt Da La Tháp, nữa đường gặp thời tiết giá buốt, vào ban đêm Ngài phải mặc 3 tấm áo mới đủ ấm, do kinh nghiệm ấy mà Phật chế giới Tam y.
Qua đó cho ta thấy mỗi giới luật đức Phật chế ra đều dựa trên sự kiện thực tế của cuộc sống. Ngài không tự nhiên đặt ra nhiều giới luật bắt chúng ta hành trì, chính là do hạnh nghiệp hữu lậu của chúng sanh mà đức Phật chế ra giới luật nhằm ngăn ngừa các ác bất thiện pháp, giúp hành giả được thanh tịnh, làm nền tảng cho sự phát triển tâm linh thẳng đến niềm hạnnh phúc an vui tịch tịnh.
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi lĩnh vực Tâm linh, tôn giáo
Rao vặt Siêu Vip