
Hỏi về ung thư thực quản?

Bạn nên đi khám bác sỹ
Bạn cũng có thể tham khảo trang này.
http://bacsyphauthuatsurgeon.wordpress.com/2011/07/31/ung-th%c6%b0-th%e1%bb%b1c-qu%e1%ba%a3n/
UNG THƯ THỰC QUẢN
Tổng quan
Theo thống kê ung thư toàn cầu (Global Cancer Statistics) của Hội ung thư Mỹ, con số mắc mới UTTQ/năm 2008 là 482300 và số chết là 406800 người. Tỷ lệ mới mắc UTTQ đứng hàng thứ 6 ở nam giới với con số ước tính 326600ca/năm và tỷ lệ chết đứng hàng thứ 5 với 276100ca/năm. Nếu tính riêng ở các nước đang phát triển con số mới mắc sẽ là 262600ca/năm đứng hàng thứ 5, số chết ước tính là 223000ca/năm đứng hàng thứ 4, chỉ sau ung thư phổi-khí quản, gan và dạ dày. Tỷ lệ mắc, chết khác nhau giữa các nước phát triển và đang phát triển cũng như theo từng vùng địa lý [1] [2].
UTTQ là căn bệnh có sức tàn phá lớn. Mặc dù một số bệnh nhân có thể được chữa khỏi nhưng điều trị UTTQ thường kéo dài, làm giảm chất lượng cuộc sống, và tỷ lệ tử vong cao. Phương pháp điều trị nào là lý tưởng cho UTTQ vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Những người theo trường phái điều trị phẫu thuật cho rằng cắt bỏ thực quản (TQ) là phương thức điều trị duy nhất có khả năng chữa bệnh triệt để, thì ngược lại những người chủ trương không phẫu thuật cho rằng cắt TQ có tỷ lệ tử vong cao và UTTQ là một bệnh không thể chữa được.
Ung thư biểu mô tuyến của thực quản (UTBMTTQ), khác với loại ung thư biểu mô vảy (UTBMV), trong khi UTBMV chỉ ở 2/3 trên của TQ thì UTBMT ở đầu xa của TQ, trên bệnh nhân trẻ và thường được phát hiện sớm hơn. Điều này làm thay đổi khái niệm điều trị phẫu thuật trong UTTQ và làm cho phẫu thuật triệt căn trở thành hiện thực [3].
Ung thư biểu mô TQ được mô tả từ đầu thế kỷ 19. Năm 1913 Frank Torek là người đầu tiên cắt bỏ TQ thành công [4]. Năm 1930, Ohsawa ở Nhật Bản và Marshall ở Mỹ thực hiện thành công cắt TQ mở ngực và tái tạo lưu thông.
Sinh lý bệnh
Các nguyên nhân của ung thư biểu mô TQ là do phơi nhiễm của niêm mạc TQ với các kích thích tố độc hại dẫn đến loạn sản và ung thư biểu mô tại chỗ.
Thiếu hụt vitamin và các chất dinh dưỡng cũng được xem là các yếu tố nguy cơ. Trung Quốc, nước có nguy cơ cao về UTTQ, thiếu hụt vitamin và các nguyên tố vi lượng có thể đóng một vai trò trong nguyên nhân gây bệnh và người ta cho là do thiếu Riboflavin [1].
Yếu tố nguy cơ
Ở các nước phương Tây, các bằng chứng hồi cứu cho thấy việc phơi nhiễm lâu dài với rượu, thuốc lá là yếu tố phổ biến nhất trong bệnh nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy.
Nghiên cứu thuần tập tại Hà Lan, của Steevens và cộng sự trên 120.852 người tham gia. Thấy những người uống trên 30 g rượu hàng ngày có, tỷ lệ cho UTBMVTQ tăng 4,6 1ần so với người không uống và 8.5 lần cho người hút thuốc và uống trên 15g rượi/ngày so với người không hút thuốc và uống ít hơn 5g rượu/ngày. Không thấy có sự liên quan giữa việc uống rượu và UTBMTTQ [5].
Ngược lại, nguy cơ UTBMVTQ và UTBMT TQ tăng lên ở những người đang hút thuốc.
Nhiễm virus Human papilloma là yếu tố góp phần trong việc gây UTTQ còn là vấn đề nghi vấn và gây nhiều tranh cãi trong khi đó không thấy có sự liên quan giữa nhiễm Helicobacter pylori với UTTQ [6-8].
Bệnh trào ngược DD-TQ là yếu tố nguy cơ phổ biến nhất cho ung thư tế bào biểu mô tuyến TQ.
10-15% số bệnh nhân nội soi vì GERD được tìm thấy có biểu mô Barrett [9]. UTBMT có thể phát triển ở những bệnh nhân này, là kết quả cuối cùng của quá trình biến đổi từ GERD đến chuyển sản Barrett, đến loạn sản nhẹ, đến loạn sản cao, và cuối cùng là UTBMT. Năm 1952, lần đầu tiên, Morson và Belcher mô tả UTBMTTQ phát sinh trên vùng biểu mô trụ với các tế bào biểu mô hình cốc [10]. Năm 1975, Naef và cộng sự nhấn mạnh tiềm năng ác tính của TQ Barrett. Bản chất tiền ác tính của TQ Barrett được đặt ra, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm kiếm các marker của ung thư biểu mô TQ nhằm mang lại sự thuận tiện cho chẩn đoán sớm và theo dõi tái phát u [11-14].
Nguy cơ UTBMT từ Barrett chuyển sản ước tính là 30-60 lần so với dân số nói chung [9]. Và tỷ lệ chính xác UTTQ tiến triển từ TQ Barrett còn chưa biết nhưng một nghiên cứu thuần tập lớn đã đưa ra con số 1ca/212 bệnh nhân TQ Barrett-1năm tương đương khoảng 0.5%-năm[15].
Tiên lượng của UTTQ kém ở những bệnh ung thư được phát hiện muộn. Tuy nhiên, hiểu biết sâu về quá trình biến đổi phân tử từ chuyển sản Barrett đến UTBMT có thể cải thiện tiên lượng bệnh. Audrezet và cộng sự đã nhận thấy rằng sự tiến triển từ chuyển sản Barrett đến UTBMT liên quan tới một số thay đổi trong cấu trúc, biểu hiện gen, và cấu trúc protein. Gen ức chế u TP53 và nhiều oncogenes khác, đặc biệt erb-b2 đã được nghiên cứu như là các marker tiềm năng [16-18].
Audrezet[16], Rene[19] Uchino[20] và các đồng nghiệp thấy đột biến ở gen TP53 trên bệnh nhân biểu mô Barrett bị UTBMT. Ngoài ra, sự biến đổi trong gen p16 và chu kỳ tế bào bất thường hoặc thể dị bội xuất hiện là một vài trong số các biến đổi phân tử quan trọng và đặc trưng nhất. Tuy nhiên, trình tự chính xác của quá trình biến đổi từ TQ Barrett đến ung thư biểu mô tuyến vẫn chưa được biết. Có lẽ sẽ có nhiều phân tử tương tác và liên quan [8].
Nghiên cứu bệnh-chứng toàn dân tại Thụy Điển cho thấy tỷ lệ UTBMT của người có các triệu chứng tái phát của trào ngược cao gấp 7,7 (95%, 5,3-11,4) so với người không có triệu chứng, và tỷ lệ này là 43,5 (95%, 18,3-103,5) ở các bệnh nhân có triệu chứng trào ngược nặng và kéo dài
Một nghiên cứu thuần tập lớn khác, kiểm tra việc sử dụng bisphosphonates uống có liên quan với tăng nguy cơ UTTQ hoặc DD (DD) cho thấy không có khác biệt có ý nghĩa cho việc tăng nguy cơ UTTQ hoặc DD giữa các quần thể uống bisphosphonate và nhóm đối chứng [21].
Dịch tễ học
Tần số
Quốc tế
UTTQ là một trong 6 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trong ung thư trên toàn thế giới [1]. Tỷ lệ ung thư biểu mô TQ có thể từ 30-800 trường hợp trên 100.000 người tuỳ vùng địa lý. Tỷ lệ này đặc biệt cao ở các vùng bắc Iran, một số khu vực ở miền nam Nga, và miền Bắc Trung Quốc [1, 2]. Không giống như ở Mỹ, ung thư biểu mô tế bào vảy chiếm 95% của tất cả các bệnh UTTQ trên toàn thế giới.
Tại Mỹ trong năm 2008, Hiệp hội Ung thư Mỹ ước tính khoảng 16.470 trường hợp mắc mới UTTQ (12.970 đàn ông và 3.500 phụ nữ); với 14.280 người (11.250 đàn ông và 3.030 phụ nữ) sẽ chết vì căn bệnh này, chiếm tỷ lệ 87 %. UTBMT TQ có tỷ lệ phát triển nhanh nhất trong tất cả các bệnh ung thư tại Mỹ. Tỷ lệ mắc ung thư biểu mô TQ khoảng 3-6 trường hợp trên 100.000 người,
Dịch tễ học của ung thư biểu mô TQ đã thay đổi rõ rệt trong vài thập kỷ qua tại Mỹ. Những năm 1970, UTBMV là loại phổ biến nhất của UTTQ (90-95%). Nó thuộc TQ ngực và đối tượng mắc chủ yếu là người gốc Phi có tiền sử của hút thuốc và uống rượu lâu dài. Trong 2 thập kỷ qua, tỷ lệ mắc UTBMT của TQ, DD và vùng niêm mạc chuyển tiếp TQ-DD đã dần dần tăng lên và chiếm hơn 50% của tất cả các trường hợp mới mắc bệnh UTTQ. Không giống như ung thư biểu mô tế bào vảy, đối tượng tác động của nó là đàn ông da trắng, với sinh bệnh học liên quan đến bệnh trào ngược DD-TQ (GERD) và sự phát triển của biểu mô Barrett [1].
Pháp, ước tính có 5500 ca mắc mới mỗi năm với số chết ước tính là 4500 ca. Độ tuổi trung bình khi chẩn đoán là 67 tuổi với ưu thế bệnh thuộc về nam giới (3 nam:1 nữ) [22].
Việt nam
UTTQ đứng hàng thứ 5, chiếm khoảng 5% trong các ung thư đường tiêu hoá [23], chẩn đoán bệnh thường muộn và tỷ lệ sống sau 5 năm sau mổ thấp 0% [24]-10% [25, 26] tuỳ từng tác giả.
Chủng tộc
Tại Mỹ, người Mỹ gốc Phi có tỷ lệ mắc UTTQ cao hơn so với người da trắng.
Giới
UTTQ thường phổ biến hơn ở nam nhiều hơn nữ, với tỷ lệ nam-nữ là 3-4:1.
Tuổi
UTTQ thường xảy ra trong độ tuổi sáu mươi bảy mươi của cuộc sống. Căn bệnh này trở nên phổ biến hơn với tiến độ tuổi, đó là khoảng 20 lần phổ biến hơn ở những người trên 65 tuổi so với người trẻ hơn 65 tuổi.
Lâm sàng
Cơ năng
- Khó nuốt là triệu chứng phổ biến nhất 75% các trường hợp. Ban đầu với thức ăn đặc, sau tăng dần và nghẹn cả thức ăn lỏng. Xuất hiện triệu chứng khó nuốt ở người lớn nên luôn luôn nhớ nội soi, chụp TQ baryte để chẩn đoán.
- Giảm cân là triệu chứng phổ biến thứ hai và xảy ra trong hơn 50% trường hợp bị UTTQ.
- Bệnh nhân cũng có thể bị chảy máu. Thường mất máu mãn tính và biểu hiện trên lâm sàng là thiếu máu.
- Đau thượng vị hoặc sau xương ức. Cũng có thể biểu hiện qua việc đau ở xương, dấu hiệu của sự di căn xa.
- Khàn tiếng do xâm lấn u vào dây thần kinh quặt ngược thanh quản, dấu hiệu của khối u không còn khả năng phẫu thuật.
- Bệnh nhân có thể ho kéo dài. Triệu chứng hô hấp có thể do hít phải thức ăn không tiêu hoá hoặc bởi sự xâm lấn trực tiếp của u vào cây khí-phế quản bởi khối u, đó cũng là dấu hiệu của khối u không còn khả năng phẫu thuật.
Thăm khám
- Mục tiêu là để thiết lập chẩn đoán và định giai đoạn ung thư.
- Các kết quả kiểm tra thường là bình thường.
- Hạch ở các vùng thượng đòn, cạnh cổ là biểu hiện của di căn, nếu được xác chẩn bằng sinh thiết thì đó là một chống chỉ định phẫu thuật.
Chẩn đoán phân biệt
- Co thắt tâm vị
- Các u lành tính của TQ
- Hẹp TQ do bỏng, sẹo…
- Ung thư tâm vị
Các xét nghiệm
Các xét nghiệm tập trung vào việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng do nuốt khó và chức năng gan ở bệnh nhân nghiện rượu.
Chẩn đoán hình ảnh- Xquang TQ có cản quang rất nhạy cảm, giúp phát hiện sự chít hẹp và khối lượng khối u trong lòng TQ. Nhưng với những ung thư mới, nông và nhỏ thì phương pháp này it có hiệu quả. Mariette [27] trong nghiên cứu của mình đã dựa vào trục thực quản thay đổi trên phim này để tiên lượng khả năng phẫu thuật triệt để của UTTQ.
- Nội soi TQ-DD cho phép nhìn đánh giá trực tiếp và sinh thiết khối u. Tuy nhiên phương pháp này chỉ cho phép chẩn đoán xác định bệnh mà không có khả năng đánh giá giai đoạn bệnh. Tahara[28] dùng nội soi + sinh thiết để theo dõi, đánh giá đáp ứng hoá-xạ trị trong UTTQ. Nhiều tác giả đề nghị nội soi TQ-DD là phương tiện sàng lọc chẩn đoán sớm UTTQ ở bệnh nhân TQ Barrett[15].
- Siêu âm nội soi (SANS) là thăm dò có độ nhạy cao nhất giúp xác định độ xâm lấn sâu của khối u (T) sự xuất hiện và lan tràn của các hạch bạch huyết quanh TQ (N). Jacques Van Dam cho rằng siêu âm nội soi không những có giá trị trong xác định giai đoạn bệnh mà còn có giá trị trong tiên lượng bệnh [29].
Kaushik[30] so sánh SANS với nội soi ngực-bụng trong đánh giá giai đoạn bệnh thấy SANS có độ chính xác 76% soi với phương pháp nội soi ngực-bụng và đạt 90% nếu kết hợp sinh thiết bằng kim nhỏ.
Machlenkin[31] nghiên cứu đánh giá đáp ứng điều trị UTTQ với hoá liệu bằng SANS trước, sáu hoá liệu để định giai đoạn và so sánh giai đoạn sau phẫu thuật thấy SANS mạnh trong đánh giá u (T), chính xác 80% trong khi đó đánh giá di căn hạch vùng chỉ đạt 35%.
Parmar[32], Reed[33] dùng SANS hướng dẫn để chọc sinh thiết bằng kim nhỏ sinh thiết hạch động mạch thân tạng giúp quyết định phẫu thuật cho kết quả dương tính cao 90% so với 30% của chụp cắt lớp.
- CT bụng và ngực hữu ích giúp chẩn đoán di căn (M) đến phổi và gan cũng như đánh giá sự xâm lấn các cấu trúc lân cận của khối u[34]. Tuy nhiên việc đánh giá u nguyên phát (T) và di căn hạch của Ctscan có nhiều hạn chế[35].
- Chụp cộng hưởng từ tương tự như Ctscaner, độ chính xác trong chẩn đoán di căn hạch ngực đạt 56% và bụng chỉ đạt 45%.
- Nội soi phế quản giúp xác định sự xâm lấn đến khí quản hoặc phế quản.
- Xạ hình xương được chỉ định ở bệnh nhân có dấu hiệu gợi ý di căn xương.
- Nội soi bụng và ngực xác định các di căn hạch vùng.có độ chính xác lớn hơn 92%. Ngoài ra còn cho phép đánh giá các di căn nhỏ ở màng phổi, phúc mạc [35].
- PET scan, một phương thức mới để định giai đoạn, nó giúp làm rõ các ổ tăng chuyển hoá của hoạt động bệnh, giúp cho chẩn đoán sớm u đến mức T1b[36] và giúp chẩn đoán sớm tái phát u [37] và là phương tiện hữu hiệu trong chẩn đoán giai đoạn bệnh giúp ích trong quyết định phẫu thuật[38]. Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả/giá thành trong chẩn đoán giai đoạn của UTTQ giữa CT, SANS+sinh thiết kim nhỏ, PET scan và nội soi ngực cho thấy kết hợp PET scan, SANS+Sinh thiết cho hiệu quả chẩn đoán cao nhất tuy nhiên giá thành cũng rất đắt[39].
Giai đoạn bệnh
Phân loại giai đoạn UTTQ đã thay đổi trong phiên bản mới nhất của UICC/AJCC trong năm 2009. Tất cả các khối u TQ và các khối u với trung tâm trong vòng 5 cm của giao TQ-DD mà mở rộng vào TQ được phân loại và định giai đoạn theo TQ. Tất cả các khối u khác với tâm ở DD lớn hơn 5 cm từ giao TQ-DD hoặc những u trong vòng 5 cm của giao TQ-DD mà không mở rộng vào TQ được phân loại và định giai đoạn theo ung thư DD.
Phân loại TNM mới như sau:
- Tis – Ung thư biểu mô tại chỗ / loạn sản cao.
- T1 – đệm niêm mạc hoặc dưới niêm mạc.
- T1a – đệm niêm mạc hoặc cơ niêm
- T1b – dưới niêm mạc.
- T2 – cơ
- T3 – Vỏ xơ
- T4 – cấu trúc liền kề
- T4a – màng phổi, màng tim, cơ hoành, hoặc liền kề phúc mạc
- T4b – cấu trúc lân cận khác (ví dụ, động mạch chủ, cột sống, khí quản)
- N0 – Không có di căn hạch bạch huyết khu vực.
- N1 – 1-2 hạch bạch huyết khu vực (N1 phụ thuộc vị trí u)
- N2 – 3-6 hạch bạch huyết khu vực
- N3 – Hơn 6 khu vực hạch bạch huyết
- M1 – di căn xa (M1a và M1b phụ thuộc vị trí u)
Bảng. phân loại giai đoạn.
Giai đoạn IA | T1 | N0 | M0 |
Giai đoạn IB | T2 | N0 | M0 |
Giai đoạn IIA | T3 | N0 | M0 |
Giai đoạn IIB | T1, T2 | N1 | M0 |
Giai đoạn IIIA | T4a | N0 | M0 |
T3 | N1 | M0 | |
T1, T2 | N2 | M0 | |
Giai đoạn IIIB | T3 | N2 | M0 |
Giai đoạn IIIC | T4a | N1, N2 | M0 |
T4b | N bất kỳ | M0 | |
T bất kỳ | N3 | M0 | |
Giai đoạn IV | T bất kỳ | N bất kỳ | M1 |
Các phân loại khác khác với UICC/AJCC, đặc biệt là liên quan đến việc phân phối hạch bạch huyết, danh pháp. Phân loại UTTQ của Hiệp hội Nhật Bản về các bệnh TQ được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Đông là một phân loại rất chi tiết và phức tạp [11]. Ở phân loại Nhật bản căn bản được hiểu như sau:
Hình ảnh đại thể u
U về mặt đại thể, chỉ giới hạn ở lớp dưới niêm mạc thì được gọi là type nông (0=superficial type)
U xâm lấn tới lớp cơ hoặc sâu hơn thì gọi là type tiến triển (1, 2, 3, 4=advanced type)
U không phân loại hoặc hỗn hợp (5)
- Type 0: Type nông (Superficial type) lại chia thành các dưới nhóm:
- Type 0-I: Type nông và nhô (Superficial and protruding type)
- Type 0-Ip: Có cuống (Pedunculated type)
- Type 0-Is: Chân rộng (broad based) type
- Type 0-II Type nông và phẳng (Superficial and flat type)
- Type 0-IIa: Hơi lồi (Slightly elevated type)
- Type 0-IIb: Phẳng (Flat type)
- Type 0-IIc: Hơi lõm (Slightly depressed type)
- Type 0-III: Type nông khuyết (Superficial and excavated type)
- Type 0-I: Type nông và nhô (Superficial and protruding type)
- Type 1: Type nhô (Protruding type)
- Type 2: Type loét khu trú (Ulcerative and localized type)
- Type 3: Type loét thâm nhiễm (Ulcerative and infiltrative type)
- Type 4: Type thâm nhiễm lan toả (Diffusely infiltrative type)
- Type 5: Type không phân loại (Unclassifiable type)
- Type 5a: Type không phân loại khi chưa điều trị (without treatment)
- Type 5b: Type không phân loại sau khi điều trị (after treatment)
Hình 1: Sơ đồ phân loại hình ảnh đại thể của UTTQ theo phân loại Nhật bản [11]
Hình 2: Sơ đồ phân loại dưới nhóm của ung thư nông UTTQ theo phân loại Nhật bản[11]
Phân loại độ xâm lấn u (T)
- TX: Độ xâm lấn sâu của u không xác định
- T0 : Không có bằng chứng của u nguyên phát.
- T1: Ung thư ở niêm mạc và dưới niêm mạc.
- T1a: Ung thư ở niêm mạc
- T1a-EP: Ung thư tại chỗ (Tis)
- T1a-LPM: Ung thư xâm lấn lớp đệm niêm mạc (invades lamina propria mucosa)
- T1a-MM: Ung thư xâm lấn lớp cơ niêm (invades muscularis mucosa)
- T1b: Ung thư xâm lấn lớp dưới niêm mạc (invades submucosa)
- SM1: Ung thư xâm lấn 1/3 trên lớp dưới niêm mạc
- SM2: Ung thư xâm lấn 1/3 giữa lớp dưới niêm mạc
- SM: Ung thư xâm lấn 1/3 dưới lớp dưới niêm mạc
- T1a: Ung thư ở niêm mạc
- T2: Ung thư xâm lấn lớp cơ TQ ( invades muscularis propria)
- T3: Ung thư xâm lấn lớp áo ngoài TQ ( invades adventitia)
- T4: Ung thư xâm lấn cơ quan lân cận ( invades adjacent structures)
Phân loại di căn hạch (N)
Các hạch được định danh và đánh số.
Các nhóm hạch được định danh 1, 2, 3, 4 không cố định với mọi vị trí ung thư mà thay đổi phụ thuộc từng vị trí ung thư.
- NX Di căn hạch không xác định
- N0 Không có di căn hặch
- N1 Di căn hạch nhóm 1
- N2 Di căn hạch nhóm 2
- N3 Di căn hạch nhóm 3
- N4 Di căn hạch xa, nhóm 4
Phân loại di căn tạng (M)
- MX Di căn không xác định
- M0 Không có di căn
- M1 Di căn tạng
Hình 3: Sơ đồ vị trí các hạch được đánh số
Không có phương pháp lâm sàng nào hoàn toàn đạt yêu cầu cho việc xác định giai đoạn UTTQ. Khó khăn của việc đánh giá lâm sàng giai đoạn bệnh được thể hiện bởi chính hệ thống phân giai đoạn của AJCC và của Nhật bản.
Phương tiện xác định giai đoạn thông thường như nội soi hoặc chụp TQ cản quang chỉ có thể chứng minh mức độ lan rộng của u trong lòng TQ, CT scan lồng ngực tương đối không nhạy cảm, ngoại trừ việc đánh giá sự hiện diện của sự lan rộng của u. Siêu âm TQ cho phép đánh giá thành TQ và cả các hạch bạch huyết lân cận. Như vậy, nó cho phép xác định lâm sàng của cả hai giai đoạn T và N trong hầu hết các bệnh nhân.
Điều trị UTTQ
- 1. Điều trị không phẫu thuật là liệu pháp cho những bệnh nhân ung thư biểu mô TQ không còn khả năng cắt bỏ do tình trạng toàn thân hoặc do bệnh tiến triển.
Các phương pháp thích hợp nhất để giảm sự khó nuốt nên được thiết kế riêng cho từng bệnh nhân riêng lẻ, tùy thuộc vào đặc điểm khối u, sở thích bệnh nhân, và chuyên môn cụ thể của bác sĩ.
- Hóa trị: hoá trị đơn sử dụng hạn chế. Chỉ có một vài bệnh nhân đáp ứng khiêm tốn và ngắn ngủi.
- Xạ trị: thành công trong khoảng 50% bệnh nhân trong việc làm giảm chứng khó nuốt. Ở bệnh nhân UTTQ tiến triển, sự kết hợp trước phẫu thuật của hóa trị và xạ trị cho thấy kết quả tốt [40-42].
- Laser điều trị (Nd: YAG laser) có thể giúp giải quyết tạm thời của chứng khó nuốt ở 70% bệnh nhân [43].
- Đặt stent kim loại tự mở rộng, dưới nội soi huỳnh quang. Chúng đặc biệt hữu ích khi có rò khí-TQ [44] [45].
- Liệu pháp quang động (PDT) là một hình thức điều trị không phẫu thuật thú vị. Cơ sở PDT là: trước hết đưa vào cơ thể người bệnh một lượng chromophores nhạy sáng, các chromophores nhạy sáng được giữ chọn lọc ở mô ác tính. Sau đó ánh sang được chiếu trong khu vực mô bệnh, ở đó các photon được hấp thụ bởi các phần tử nhạy sáng. Các phần tử nhạy sáng trở nên hoạt động và chuyển năng lượng cho chất hóa học gây tổn thương sinh học cho các mô ung thư [46].
- Hoá-xạ trị phối hợp:
- Bởi vì hầu hết bệnh nhân phẫu thuật đều đã có di căn hạch. Tỷ lệ sông 5-năm hiện nay vẫn còn khá thấp. Hóa trị và xạ trị (đơn trị hoặc kết hợp) đã được sử dụng trước hoặc sau khi phẫu thuật trong nỗ lực nhằm cải thiện thời gian sống.
- Mục đích của điều trị bổ trợ trước phẫu thuật hóa trị là để giảm khối lượng của khối u trước khi phẫu thuật, để đạt tỷ lệ phẫu thuật triệt để cao hơn và loại bỏ hoặc trì hoãn sự di căn xa. Hóa xạ trị đồng thời đã chứng minh tỷ lệ đáp ứng của bệnh cao 30%.
- Hóa trị liệu u tế bào vảy thường được sử dụng dựa trên cisplatin trong khi đó những lựa chọn hóa trị liệu trong UTBMT TQ đã được ngoại suy từ kinh nghiệm hóa trị liệu UTBMT của DD.
- Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy khoảng 15-20% bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn với điều trị, không tìm thấy khối u trong mẫu bệnh phẩm.
- Một thử nghiệm ngẫu nhiên được thực hiện bởi Urba so sánh hoá trị trước phẫu thuật (cisplatin, fluorouracil, và vinblastine) so với phẫu thuật đơn thuần cho bệnh nhân ung thư biểu mô TQ có khả năng cắt bỏ, không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
- Walsh đã tiến hành một thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh kết quả phẫu thuật với hóa trị liệu kết hợp, xạ trị và phẫu thuật và kết quả cho thấy bệnh nhân được hóa trị liệu cảm ứng (2 liệu trình của cisplatin và fluorouracil, 1 liệu trình xạ trị 40 Gy) tiếp theo là phẫu thuật cải thiện hơn so với những người chỉ phẫu thuật về tỷ lệ sống. Thời gian sống trung bình của họ là 16 tháng, so với 11 tháng đối với những người chỉ phẫu thuật. Các lợi thế về tỷ lệ sống sót sau mổ thậm chí còn rõ ràng hơn ở 3 năm (32% so với 6%, P = 0,01)[47].
- Tessa, Ý trong nghiên cứu trên 75 bn UTTQ tiến triển tại chỗ tia xạ ngoài, liều 60Gy (180cGy/ngày x 5ngày/tuần x 7 tuần), 53 bn dùng thêm hoá chất cisplatin + fluorourcil 2 liệu trình 5 ngày tuần 1 và 5, xạ trị áp sát liều 5-7Gy trong lòng TQ cho những bệnh nhân u đã đáp ứng nhưng còn tồn tại, 14 bệnh nhân mổ cho kết quả như sau: 61% hết hoàn toàn triệu chứng nghẹn, 27% gần như hết triệu chứng. 33% đáp ứng hoàn toàn, 45% đáp ứng một phần, 28.5% được chứng minh là sạch u. Thời gian sống sau 2, 5 năm là 38, 28%[48].
- Bosset điều trị bệnh nhân hoá-xạ trị cảm ứng (cisplatin và 18,5 Gy) và phẫu thuật và phẫu thuật đơn thuần, thấy ở những bệnh nhân UTBMVTQ, hoá-xạ trước phẫu thuật không cải thiện thời gian sống[49].
- Một phân tích meta so sánh ngẫu nhiên 10 thử nghiệm hoá xạ trị so với phẫu thuật đơn thuần (n = 1209) và 8 nghiên cứu hóa trị so với phẫu thuật đơn thuần (n = 1724) ở bệnh nhân ung thư biểu mô TQ tại chỗ có khả năng phẫu thuật. Các tác giả kết luận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sống sót là bằng chứng rõ ràng cho ưu điểm hoá-xạ trị trước phẫu thuật. Hóa trị liệu trước phẫu thuật chỉ có ý nghĩa trong việc hạn chế lan rộng của u trong UTBMT TQ.
- Liệu pháp gen: Điều trị gen liệu pháp là một hướng đi mới dựa trên những thành tựu nghiên cứu về gen và chỉ đang ở giai đoạn đầu ứng dụng với kết quả khiêm tốn[18, 50, 51]
Cắt TQ (esophagectomy) là một phần quan trọng trong điều trị UTTQ ở những bệnh nhân còn có khả năng phẫu thuật. Phẫu thuật dần không được sử dụng cho việc giải quyết các triệu chứng bởi vì đã có nhiều phương thức điều trị khác ít xâm lấn hơn đang dần thay thế trong điều trị chứng khó nuốt. Cắt TQ có thể được thực hiện qua lỗ hoành (transhiatal esophagectomy [THE]) hoặc qua đường mở ngực (transthoracic esophagectomy [TTE]).
THE có lợi thế là tránh một đường mở ngực, có thể là một nguyên nhân làm nặng thêm tình trạng của bệnh nhân với chức năng hô hấp bị suy giảm.
Ngày nay nội soi đã tiếp cận và dần thay thế các phương pháp mở. Ưu điểm của phẫu thuật bao gồm:
- Việc sử dụng kỹ thuật nội soi ổ bụng hoặc thoracoscopic đã cách mạng hóa việc điều trị các bệnh lành tính như co thắt tâm vị và GERD.
- Khi so sánh với phẫu thuật mở, thời gian nằm viện ngắn hơn, sự khó chịu sau phẫu thuật giảm, và thời gian phục hồi nhanh hơn.
Yamamoto thông báo kết quả phẫu thuật điều trị UTTQ qua nội soi ngực cho những bệnh nhân giai đoạn I và II trong 10 năm 1995-2004 cho 112 bn như sau: Tai biến trong mổ 4 bn (3.6%), tổn thương phế quản 3 bn, tĩnh mạch đơn 1 bn. Tỷ lệ chết trong 30 ngày sau mổ 0.8%, biến chứng sớm sau mổ 25.9% bao gồm: liệt thần kinh quặt ngược 8.9%, biến chứng hô hấp 6.3%, rò miệng nối 8%, tràn dịch dưỡng chấp màng phổi 2.7%. Tái phát ung thư tại vị trí chọc trocar 2.7%, tỷ lệ sống sau 5 năm với giai đoạn I: 87.2%, giai đoạn II: 70.2%[52]. Đây thực sự là một con số đáng khích lệ cho phẫu thuật nội soi trong UTTQ.
Cắt bỏ niêm mạc nội soi (EMR) là một lựa chọn hấp dẫn hiện đại để điều trị bệnh UTTQ nông. Dị sản cao và ung thư khu trú niêm mạc là lựa chọn cho EMR [53].
Theo dõi UTTQ
Chăm sóc bệnh nhân sau mổ
- Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 9-14 ngày.
- Cho ăn qua mở thông hỗng tràng bắt đầu vào ngày hậu phẫu 1.
- Vào ngày hậu phẫu 6, kiểm tra rò miệng nối. Nếu không có, bệnh nhân bắt đầu đươc cho ăn uống đường miệng.
Tiên lượng
- Sự sống còn phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Di căn bạch huyết hoặc di căn tạng có liên quan với tỷ lệ sống thấp.
- Một báo cáo gần đây của 1.085 bệnh nhân ung thư cho thấy, tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật là 4%, tỷ lệ sống 5 năm 23%. Một nhóm bệnh nhân được bức xạ trước phẫu thuật và hóa trị có tỷ lệ sống 5-năm (48%)
- Bệnh nhân không di căn hạch bạch huyết có tiên lượng tốt hơn đáng kể
- Giai đoạn IV có tỷ lệ sống 5-năm chưa đến 5%.
- THE và TTE có tỷ lệ sống sót tương đương.
- Ung thư tế bào vảy và UTBMT, giai đoạn của giai đoạn, có tỷ lệ sống sót tương đương.
Bs Nguyễn Ngọc Khánh
Khoa Phẫu thuật tiêu hoá B bệnh viện Saint Paul Hà nội

Bạn thân mến!
Để có thể biết được chính xác bạn nên đưa bố bạn đi kiểm tra để có chẩn đoán chính xác.Sau đây là một vài hiểu biết của tôi về ung thư thực quản bạn có thể tham khảo. Tôi cũng được biết hiện nay có một phương pháp mới trong điều trị unh thư ở các giai đoạn có hiệu quả rất tốt. Hiện do Công ty cổ phần chăm sóc sức khỏe Việt Nam tư vấn. Để biết cụ thể hơn bạn có thể liên hệ: 0169 278 3250.
Đại cương:
Ung thư thực quản thuộc loại Ung thư có diễn biến xấu nhất trong các U của nội tạng do nó thường đã ở giai đoạn tiến triển rộng khi phát hiện được trên lâm sàng.
Bệnh thường gặp ở Nam giới, tuổi trên 40. Tỉ lệ mắc bệnh trong các quần thể người không giống nhau: ở Hoa kỳ tỉ lệ phát hiện mới Ung thư thực quản hàng năm là 6/100.000, trong khi đó có tỉnh tại Trung quốc (Henan) tỉ lệ bị Ung thư thực quản trong quần thể là 0,9%.
Bệnh căn của Ung thư thực quản vẫn còn nhiều điểm chưa được biết rõ, nhưng có nhiều yếu tố có liên quan đến việc xuất hiện bệnh, đó là:
+ Chế độ ăn uống: Nghiện rượu, thuốc lá; Thực phẩm và nước uống có nhiều Nitrit và Nitrat (là nguồn sinh ra Nitrosamin-chất gây Ung thư). Thiểu dưỡng, Thiếu các vitamin, Thiếu máu, Thói quen ăn và uống nhiều đồ nóng và các chất gây cọ sát niêm mạc thực quản...
+ Một số các tổn thương của thực quản có ý nghĩa như các bệnh “tiền Ung thư“: sẹo bỏng thực quản, viêm thực quản do trào ngược dạ dày-thực quản, bệnh co thắt tâm vị, thoát vị khe hoảnh, túi thừa thực quản, lạc chỗ niêm mạc dạ dày vào thực quản...
+ Các yếu tố nhiễm khuẩn: vệ sinh răng miệng kém, Sâu răng, nhiễm nấm (Geotrichum candidum, Fusarium)…
Giải phẫu bệnh lý:
Đại thể:
+ Khối Ung thư thực quản có thể nằm ở bất cứ đoạn nào của thực quản: đoạn cổ (nằm ngoài lồng ngực), đoạn trong lồng ngực ( 1/3 trên, 1/3 giữa và 1/3 dưới) và đoạn Tâm vị. Trong đó thường gặp Ung thư thực quản ở đoạn trong lồng ngực 1/3 giữa , 1/3 dưới và đoạn Tâm vị..
+ Các U ở đoạn trên và giữa thực quản trong lồng ngực nằm trong phần hẹp của trung thất nên dễ xâm nhiễm vào các tạng của trung thất như: khí-phế quản, quai động mạch chủ ,thần kinh quặt ngược, ống ngực...
+ Các U ở đoạn dưới thực quản và Tâm vị do là ở phần rộng của trung thất nên chậm có hiện tượng xâm nhiễm vào các cơ quan trong trung thất. Nếu có phát triển thì thường xâm nhiễm vào màng ngoài tim, cơ hoành, dạ dày…
+ U cũng thường lồi vào lòng thực quản hoặc xâm nhiễm làm hẹp lòng thực quản, bề mặt có thể sùi và loét.
Vi thể:
Về tổ chức học,có thể gặp các loại Ung thư thực quản sau:
+ Caxinom tế bào vẩy (Squamous cell carcinoma): Chiếm khoảng 95 % các Ung thư thực quản.
+ Caxinom thể tuyến (Adeno carcinoma): chiếm khoảng 2,5-8% các Ung thư thực quản nguyên phát.
+ Một số loại Ung thư tuyến khác hiếm gặp: Ung thư tế bào nhỏ không biệt hoá, Caxinom nang dạng tuyến (Adenoid cystic carcinoma), U sắc tố ác tính (Malignant melanoma)...Caxino-sacom (Carcino-sarcoma): là loại có hỗn hợp các tế bào của Caxinom tế bào vẩy và Sacom tế bào thoi ác tính.
+ Sacom thực quản: về lý thuyết có thể gặp Leiomyosarcoma, Fibrosarcoma và Rhabdomyosarcoma nhưng trên thực tế rất hiếm gặp.
Triệu chứng:
Triệu chứng lâm sàng:
+ Khó nuốt, cảm giác nặng và tức sau xương ức khi nuốt, nuốt nghẹn tăng dần .
+ Tăng tiết nước bọt, ứa nước dãi, nấc...
+ Đau vùng sau xương ức, khó thở tăng dần.
+ Khi U xâm lấn và phá huỷ vào các cơ quan ở trung thất như Khí-phế quản, Màng phổi, Các mạch máu lớn... thì sẽ xuất hiện các triệu chứng của các biến chứng nặng.
+ Toàn trạng bệnh nhân gầy sút, thiếu máu,suy kiệt.
Triệu chứng cận lâm sàng:
+ X.quang:
- Soi và Chụp thực quản có uống thuốc cản quang (tư thế thẳng, nghiêng, chếch trước-phải, chếch trước-trái): hình thực quản bị chít hẹp lại. Có thể thấy hai loại hình ảnh:
* Thể sùi: chỗ thực quản hẹp có bờ viền khuyết nham nhở, không đều.
* Thể thâm nhiễm: lòng thực quản bị chít hẹp lại, viền chỗ chít hẹp ngoằn ngoèo.
- Chụp dạ dày cản quang tư thế Trendelenburg: nhằm xác định liên quan của khối Ung thư thực quản với vùng tâm vị và dạ dày.
+ Nội soi thực quản:
Xác định chính xác vị trí khối U, hình dạng khối U, mức độ chít hẹp lòng thực quản, tình trạng loét và sùi của bề mặt khối U. Đặc biệt, Nội soi còn cho phép sinh thiết khối U và lấy bệnh phẩm đi xét nghiệm tế bào học và tổ chức học để xác định chẩn đoán.
+ Chụp cắt lớp vi tính (CT) :
Xác định chính xác vị trí và hình thái khối U, mức độ chít hẹp lòng thực quản, đặc biệt xác định được tương quan giải phẫu cũng như mức độ xâm lấn của khối U đối các cơ quan khác trong trung thất.
Chẩn đoán:
Chẩn đoán xác định:
+ Nuốt nghẹn tăng dần.
+ Chụp X.quang thực quản có uống thuốc cản quang: hình thực quản bị hẹp với bờ viền nham nhở hay chít hẹp ngoằn ngoèo.
+ Soi thực quản và sinh thiết khối U: cho chẩn đoán xác định.
Chẩn đoán phân biệt:
Với một số các bệnh thực quản:
+ Co thắt tâm vị:
- Nuốt nghẹn thay đổi theo tính chất vật lý của thức ăn, theo trạng thái thần kinh của bệnh nhân...
- Chụp X.quang thực quản cản quang: hình chỗ hẹp thực quản có bờ mềm mại, phần thực quản trên chỗ hẹp phình to, không có bóng hơi dạ dày.
- Soi thực quản có thể giúp cho chẩn đoán xác định.
+ Túi thừa thực quản:
- Chụp X.quang thực quản cản quang: thấy được hình túi thừa thực quản chứa thuốc cản quang.
- Soi thực quản giúp chẩn đoán xác định.
+ Viêm hẹp thực quản do trào ngược dạ dày-thực quản:
- Cảm giác nóng rát sau xương ức mỗi khi cúi thấp hay thay đổi tư thế (do dịch dạ dày trào ngược lên thực quản).
- Soi thực quản xác định được tình trạng viêm vùng thực quản-tâm vị.
+ Sẹo hẹp thực quản (thường do bỏng thực quản):
- Có tiền sử bệnh gây sẹo hẹp thực quản (thường do uống hoá chất có tác dụng gây tổn thương tổ chức mạnh như Axit, Kiềm...mạnh).
- Soi thực quản chẩn đoán xác định.
b) Với các bệnh ở các cơ quan lân cận:
+ Ung thư tâm vị dạ dày:
- Chụp X.quang tư thể Trendelenburg có thể xác định được giới hạn dưới của khối U ở vùng tâm vị dạ dày.
- Chụp CT xác định được vị trí, hình thể và tương quan giải phẫu của khối U.
+ Ung thư hầu-thanh quản:
Tiến hành nội soi và sinh thiết để chẩn đoán xác định. Khi cần có thể chụp CT để xác định hình thái và tương quan giải phẫu của khối U với các cơ quan xung quanh.
+ U trung thất:
- Chụp X.quang thực quản cản quang: hình thực quản bị chèn đẩy lệch khỏi vị trí bình thường chứ không phải bị chít hẹp do khối U phát triển từ lòng thực quản gây ra.
- Soi thực quản: hình lòng thực quản bị chèn do khối U từ bên ngoài.
- Chụp CT: xác định chính xác vị trí, hình thái và tương quan giải phẫu của khối U trung thất.
Tiến triển:
Bệnh tiến triển ngày càng nặng, tình trạng xâm lấn tăng dần, xuất hiện di căn xa và nếu không được điều trị thì thường dẫn tới tử vong sau khoảng 6-12 tháng:
+ Các triệu chứng nuốt nghẹn tăng dần, dẫn tới hoàn toàn không nuốt được bất cứ loại thức ăn nào, toàn trạng bệnh nhân suy kiệt nặng.
+ Đau sau xương ức tăng dần, lan sang cạnh sườn. Khó thở tăng dần do U phát triển xâm lấn hay di căn vào khí quản. Có thể bị nói khàn do U xâm lấn vào dây thần kinh quặt ngược.
+ Di căn Ung thư đến các cơ quan khác như: hạch trên đòn, trung thất, phổi , màng phổi , gan, dạ dày...
Biến chứng:
Khối U phát triển xâm nhiễm và phá huỷ vào các tạng xung quanh gây nên các biến chứng nặng :
+ Phá huỷ vào khí-phế quản gây rò thực quản-khí quản, rò thực quản-phế quản, Apxe phổi…
+ Phá huỷ vào trung thất gây viêm mủ trung thất. Vỡ vào màng phổi gây viêm mủ màng phổi…
+ Phá huỷ vào các mạch máu lớn trong trung thất gây chảy máu ồ ạt và tử vong.
Chúc gia đình bạn sức khóe!

Chào ban!
Tôi đã đọc bài của ban, hiện nay bố tôi cũng bị như bố bạn
Bố ban đã chữa khỏi bênh chưa và bố bạn đã chữa ở đâu cho tôi biết với
Xin cảm ơn nhiều

Rất nhiều người bị Ung thư dùng có hiệu quả rất tốt, còn kinh phí lại ít tốn kém.
Nếu bạn cần giúp đỡ mình sẽ giúp, liên hệ với mình:
Vũ Đức Nhơn, ĐT: 0915.540.973
Email & Nick: ducnhon2203@yahoo.com
