Câu hỏi

25/06/2013 08:29
Nong mạch vành được thực hiện như thế nào ?
Danh sách câu trả lời (1)

Nong mạch vành thường được thực hiện trong bệnh viện. Trước thủ thuật, bệnh nhân sẽ được đặt một đường truyền tĩnh mạch ở cánh tay. Bệnh nhân sẽ được truyền thuốc an thần nhưng vẫn giữ tĩnh, tim và sinh hiệu được theo dõi liên tục bằng các thiết bị nối với bệnh nhân.
Sau khi gây tê tại chỗ, một ống catheter sẽ được đặt vào động mạch đùi ở vùng háng hoặc đôi lúc đặt vào động mạch cánh tay ở mặt trong khuỷu tay. Từ vị trí này, catheter sẽ được luồn vào trong động mạch bệnh nhân. Khi catheter đã vào trong lòng mạch, chất cản quang sẽ được bơm vào mạch, giúp bác sĩ thấy được hình ảnh bên trong lòng động mạch, nhằm xác định chính xác vị trí và mức độ tắc nghẽn của mạch máu. Các hình ảnh này được gọi là động mạch đồ và có nhiệm vụ làm bản đồ chỉ dẫn cho các bác sĩ để phá vỡ các tắc nghẽn.
Một kỹ thuật khác, được gọi là nong mạch vành bằng laser, sử dụng tia laser phát ra các sóng ánh sáng dao động làm tan các mảng xơ vữa. Bác sĩ cũng có thể bơm một bóng nhỏ (nong mạch vành bằng bóng) để ép các mảng xơ mỡ lắng đọng vào thành động mạch. Ngày càng có nhiều bác sĩ chọn phương pháp đặt một ống bằng lưới kim loại (stent) vào động mạch sau khi nong, để giúp giữ cho động mạch không hẹp lại trong thời gian dài.
Sau khi kết thúc thủ thuật, ống catheter ở háng hay ở cánh tay sẽ được rút ra và vị trí đặt catheter này sẽ được ép lại trong vòng 15 đến 20 phút. Bệnh nhân sẽ được theo dõi trong phòng hồi sức từ 30 đến 60 phút.
Nguy cơ và biến chứng.
Bệnh nhân có thể có cảm giác đè ép và khó chịu trong lúc làm thủ thuật. Đối với 10 đến 20 phần trăm bệnh nhân, động mạch bị tái hẹp trong vòng 6 tháng sau khi nong. Hiếm khi gặp các biến chứng nặng như nhồi máu cơ tim, đột tử do tim hay phải phẫu thuật bắc cầu cấp cứu.
Tuy nhiên, nếu động mạch được nong bị tắc lại sớm sau khi nong (tình trạng này gọi là đóng mạch máu đột ngột), bệnh nhân có thể cần phải thực hiện phẫu thuật bắc cầu cấp cứu.
Sau khi gây tê tại chỗ, một ống catheter sẽ được đặt vào động mạch đùi ở vùng háng hoặc đôi lúc đặt vào động mạch cánh tay ở mặt trong khuỷu tay. Từ vị trí này, catheter sẽ được luồn vào trong động mạch bệnh nhân. Khi catheter đã vào trong lòng mạch, chất cản quang sẽ được bơm vào mạch, giúp bác sĩ thấy được hình ảnh bên trong lòng động mạch, nhằm xác định chính xác vị trí và mức độ tắc nghẽn của mạch máu. Các hình ảnh này được gọi là động mạch đồ và có nhiệm vụ làm bản đồ chỉ dẫn cho các bác sĩ để phá vỡ các tắc nghẽn.
Một kỹ thuật khác, được gọi là nong mạch vành bằng laser, sử dụng tia laser phát ra các sóng ánh sáng dao động làm tan các mảng xơ vữa. Bác sĩ cũng có thể bơm một bóng nhỏ (nong mạch vành bằng bóng) để ép các mảng xơ mỡ lắng đọng vào thành động mạch. Ngày càng có nhiều bác sĩ chọn phương pháp đặt một ống bằng lưới kim loại (stent) vào động mạch sau khi nong, để giúp giữ cho động mạch không hẹp lại trong thời gian dài.
Sau khi kết thúc thủ thuật, ống catheter ở háng hay ở cánh tay sẽ được rút ra và vị trí đặt catheter này sẽ được ép lại trong vòng 15 đến 20 phút. Bệnh nhân sẽ được theo dõi trong phòng hồi sức từ 30 đến 60 phút.
Nguy cơ và biến chứng.
Bệnh nhân có thể có cảm giác đè ép và khó chịu trong lúc làm thủ thuật. Đối với 10 đến 20 phần trăm bệnh nhân, động mạch bị tái hẹp trong vòng 6 tháng sau khi nong. Hiếm khi gặp các biến chứng nặng như nhồi máu cơ tim, đột tử do tim hay phải phẫu thuật bắc cầu cấp cứu.
Tuy nhiên, nếu động mạch được nong bị tắc lại sớm sau khi nong (tình trạng này gọi là đóng mạch máu đột ngột), bệnh nhân có thể cần phải thực hiện phẫu thuật bắc cầu cấp cứu.
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi lĩnh vực Câu hỏi khác
Rao vặt Siêu Vip