Câu hỏi

30/05/2013 09:28
Xin cho biết chi tiết về tác dụng dược lư của ốc sên (có tên khoa học là Achtina fulica) ?
Con tôi năm nay 24 tuổi, bị bệnh hen từ nhỏ, đă điều trị bằng nhiều thứ thuốc, trong đó có cả cá ngựa, tắc kè, mật quạ... Bệnh ổn định nhiều năm nhưng nay lại tái phát, chữa măi vẫn chưa cắt hẳn cơn. Theo kinh nghiệm được nêu trong bài "Giá trị chữa bệnh của măng tre" đăng trên báo Nông nghiệp Việt Nam, tôi đă dùng hỗn dịch nước ép măng tre và nước sắc ốc sên để chữa bệnh cho cháu. Ngoài ra c̣n dùng cá ngựa và tắc kè phơi khô, sao vàng nghiền bột cho cháu ăn. Xin bác sĩ cho biết chi tiết về tác dụng dược lư của ốc sên (có tên khoa học là Achtina fulica) và cách chế biến cá ngựa và tắc kè?
gvit96
30/05/2013 09:28
Danh sách câu trả lời (1)

Ốc sên (tên khoa học Achtina fulica), thuộc họ ốc sên (Achatinidae), là động vật thân mềm có vỏ màu hơi vàng nâu, có đầu và một chân tỏa rộng ra đằng sau đầu, phía trước đầu có hai đôi xúc tu (râu). Chúng thường sống ẩn trong các khe, bụi cây, hốc cây... Vào mùa đông ốc sên ngưng hoạt động để tránh lạnh, chúng co ḿnh vào vỏ và tiết ra một màng nhầy bịt kín miệng vỏ lại. Ốc sên là loài động vật lưỡng tính, nghĩa là trong cơ thể vừa có cơ quan sinh dục đực vừa có cơ quan sinh dục cái. Chúng không tự thụ tinh được, đến mùa sinh sản thường ghép đôi để trao đổi tinh trùng cho nhau. Ốc sên đẻ trứng vào hốc đất thành từng đám, vài ba tuần sau trứng nở thành ốc sên con. Ốc sên ăn thực vật, thường phá hoại cây cỏ, hoa màu.
Về thành phần hóa học, trong nước ốc sên thủy phân có 0,48% nitơ toàn phần, 0,112% nitơ amin với những acid amin như leuxin, alanin, valin, acid aspartic, acid glutamic, nor - leuxin.
Theo y học cổ truyền, ốc sên vị mặn tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, tiêu thũng. Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam đă viết: "Từ năm 1991, nhân dân một số vùng ở Hải Pḥng, Thái B́nh, Hải Hưng thường bắt về nấu ăn chữa hen suyễn". Trong Nam dược thần hiệu, danh y Tuệ Tĩnh cũng viết: "Oa ngưu - ốc sên, vị mặn, tính hàn, hơi độc, trơn mềm, trị trúng phong méo miệng, kinh giản giật rút, bị rết cắn, thũng độc điều trị được cả". Hải Thượng Lăn Ông trong Lĩnh Nam bản thảo đă ghi nhận:
"Oa ngưu tục gọi là con sên,
Mặn, lạnh, hơi độc, tính trơn mềm,
Phong tà méo lệch, kinh co rút,
Rết cắn, độc sưng đều chữa yên".
Ở Trung Quốc, người ta dùng loài Oa ngưu - Eulota peliomphala Pfr. làm thuốc trị phong nhiệt kinh giản, tiêu khát, đau họng, bệnh quai bị, tràng nhạc, ung thũng, lở trĩ, thoát giang và rết cắn.
Về cách dùng, có thể sắc, giă lấy nước hoặc phơi khô tán bột uống trong; Giă hoặc phơi khô tán bột bôi ngoài; Ở một số nơi người ta c̣n dùng ốc sên để chế biến thành các món ăn.
Trong y học cổ truyền, nước ép măng tre được gọi là Trúc lịch, cũng có vị đắng tính lạnh, công dụng thanh nhiệt hoạt đàm, trấn kinh lợi khiếu, thường được dùng để chữa các bệnh do phong đàm, nhiệt đàm gây nên, trong đó có chứng khái nghịch đoản khí mà y học hiện đại gọi là hen phế quản. Tuy nhiên, theo lư luận về hàn nhiệt của y học cổ truyền, v́ ốc sên và trúc lịch đều có tính lạnh nên chỉ được dùng cho hen phế quản thuộc thể nhiệt, biểu hiện bởi các triệu chứng như: bệnh thường tái phát vào mùa hè, có sốt, khó thở, ho khạc đờm vàng, miệng khô họng rát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ..., y học hiện đại thường gọi là hen phế quản do nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những kinh nghiệm dân gian chưa được chứng minh bằng các công tŕnh nghiên cứu khoa học.
Tắc kè và cá ngựa cũng là những vị thuốc Đông y thường được dùng để chữa hen phế quản. Có nhiều cách dùng, trong đó h́nh thức sấy khô vàng, tán bột uống là tiện dụng hơn cả. Liều lượng mỗi thứ từ 1-3g/ngày.
Về thành phần hóa học, trong nước ốc sên thủy phân có 0,48% nitơ toàn phần, 0,112% nitơ amin với những acid amin như leuxin, alanin, valin, acid aspartic, acid glutamic, nor - leuxin.
Theo y học cổ truyền, ốc sên vị mặn tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, tiêu thũng. Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam đă viết: "Từ năm 1991, nhân dân một số vùng ở Hải Pḥng, Thái B́nh, Hải Hưng thường bắt về nấu ăn chữa hen suyễn". Trong Nam dược thần hiệu, danh y Tuệ Tĩnh cũng viết: "Oa ngưu - ốc sên, vị mặn, tính hàn, hơi độc, trơn mềm, trị trúng phong méo miệng, kinh giản giật rút, bị rết cắn, thũng độc điều trị được cả". Hải Thượng Lăn Ông trong Lĩnh Nam bản thảo đă ghi nhận:
"Oa ngưu tục gọi là con sên,
Mặn, lạnh, hơi độc, tính trơn mềm,
Phong tà méo lệch, kinh co rút,
Rết cắn, độc sưng đều chữa yên".
Ở Trung Quốc, người ta dùng loài Oa ngưu - Eulota peliomphala Pfr. làm thuốc trị phong nhiệt kinh giản, tiêu khát, đau họng, bệnh quai bị, tràng nhạc, ung thũng, lở trĩ, thoát giang và rết cắn.
Về cách dùng, có thể sắc, giă lấy nước hoặc phơi khô tán bột uống trong; Giă hoặc phơi khô tán bột bôi ngoài; Ở một số nơi người ta c̣n dùng ốc sên để chế biến thành các món ăn.
Trong y học cổ truyền, nước ép măng tre được gọi là Trúc lịch, cũng có vị đắng tính lạnh, công dụng thanh nhiệt hoạt đàm, trấn kinh lợi khiếu, thường được dùng để chữa các bệnh do phong đàm, nhiệt đàm gây nên, trong đó có chứng khái nghịch đoản khí mà y học hiện đại gọi là hen phế quản. Tuy nhiên, theo lư luận về hàn nhiệt của y học cổ truyền, v́ ốc sên và trúc lịch đều có tính lạnh nên chỉ được dùng cho hen phế quản thuộc thể nhiệt, biểu hiện bởi các triệu chứng như: bệnh thường tái phát vào mùa hè, có sốt, khó thở, ho khạc đờm vàng, miệng khô họng rát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ..., y học hiện đại thường gọi là hen phế quản do nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những kinh nghiệm dân gian chưa được chứng minh bằng các công tŕnh nghiên cứu khoa học.
Tắc kè và cá ngựa cũng là những vị thuốc Đông y thường được dùng để chữa hen phế quản. Có nhiều cách dùng, trong đó h́nh thức sấy khô vàng, tán bột uống là tiện dụng hơn cả. Liều lượng mỗi thứ từ 1-3g/ngày.
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi lĩnh vực Các bệnh thường gặp
Rao vặt Siêu Vip