
han ngach

Theo quy định tại Điều XI Hiệp định Gatt 1994 thì
Điều XI
Triệt tiêu chung các hạn chế định lượng
1. Không một sự cấm hay hạn chế nào khác ngoại trừ thuế quan và các khoản thu khác, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác sẽ được bất cứ một bên ký kết nào định ra hay duy trì nhằm vào việc nhập khẩu từ lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào hay nhằm vào việc xuất khẩu hay bán hàng để xuất khẩu đến lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào.
2. Các quy định của khoản 1 trong điều khoản này sẽ không được áp dụng với các trường hợp dưới đây:
(a) Cấm hay hạn chế xuất khẩu tạm thời áp dụng nhằm ngăn ngừa hay khắc phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực hay các sản phẩm khác mang tính trọng yếu đối với với Bên ký kết đang xuất khẩu;
(b) Cấm hay hạn chế xuất khẩu cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc tế;
(c) Hạn chế nhập khẩu nông sản hay thuỷ sản dù nhập khẩu dưới bất cứ hình thức nào nhằm triển khai các biện pháp của chính phủ được áp dụng:
(i) để hạn chế số lượng các sản phẩm nội địa tương tự được phép tiêu thụ trên thị trường hay sản xuất, hoặc là nếu không có một nền sản xuất trong nước đáng kể, thì để hạn chế số lượng một sản phẩm nội địa có thể bị sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế; hoặc
(ii) để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nội địa tương tự, hoặc nếu không có nền sản xuất một sản phẩm nội địa tương tự, để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế, bằng cách đem số lượng dư thừa để phục vụ một nhóm người tiêu dùng miễn phí hay giảm giá dưới giá thị trường; hoặc
(iii) để hạn chế số lượng cho phép sản xuất với một súc sản mà việc sản xuất lại phụ thuộc trực tiếp một phần hay toàn bộ vào một mặt hàng nhập khẩu, nếu sản xuất mặt hàng đó trong nước tương đối nhỏ.
Bất cứ một bên ký kết nào khi áp dụng hạn chế nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào theo nội dung điểm (c) của khoản này sẽ công bố tổng khối lượng hay tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định trong tương lai và mọi thay đổi về số lượng hay trị giá nói trên. Hơn thế nữa, bất cứ sự hạn chế nào được áp dụng theo nội dung mục (i) nói trên cũng không nhằm hạn chế tổng khối lượng nhập khẩu trong tương quan với tổng khối lượng được sản xuất trong nước, so với tỷ trọng hợp lý có thể có trong điều kiện không có hạn chế. Khi xác định tỷ trọng này bên ký kết đó cần quan tâm đúng mức tới tỷ trọng đã có trong một thời gian đại diện trước đó hay quan tâm tới một nhân tố riêng biệt nào đó có thể đã hay đang ảnh hưởng tới sản phẩm liên quan.
Như vậy, xu hướng chung trong lĩnh vực thương mại quốc tế là hạn chế tất cả các biệp pháp phi thuế quan gây ảnh hưởng xấu đến việc tự do hóa thương mại trong đó có việc sử dụng các biện pháp như áp hạn ngạch và giấy phép nhập khẩu.
Thương mại tự do có nghĩa là một thị trường thương mại lý tưởng mà ở đó sự trao đổi, mua bán hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia với nhau mà không bị hạn chế bởi các chính sách xuất nhập khẩu của các quốc gia đó.
Ví dụ như: Nước X áp dụng mức thuế với anh A là người nước X là 10%, còn áp dụng với anh B là người nước Y là 15%. Trường hợp này có sự hạn chế thuế quan đối với công dân hai nước khác nhau.
Đây ko phải là thị trường thương mại quốc tế tự do.
Nếu cũng trường hợp này, nước X áp mức thuế là 10% thì lúc đó giữa anh A và anh B được nước X đối xử công bằng với mức thuế ngang nhau. Lúc đó thị trường được coi là tự do
CÔNG TY LUẬT CỘNG ĐỒNG Số 2, Ngõ 58, Đường Nguyễn Chí Thanh, Quận Đống Đa, Hà Nội Điện thoại : 04.32595465/ 22 15 90 90 Fax: 04.3259 5361 hoặc DĐ VP: 090 323 7022 DĐ: 091 33 00 104 Web: luatcongdong.vn Email: luatcongdong@gmail.com