
Tác dụng phụ thuốc phá thai ?
Cho mình hỏi tác dụng phụ của thuốc phá thai, ở đây là phá thai khi thai vào tử cung rồi
Sau khi uống viên thuốc mifepristone thì có biểu hiện đau đầu, đau bụng, chóng mặt, buồn nôn, nôn trong vòng bao lâu? Dùng xong mifepristone, 2 ngày sau dùng tiếp misoprostol, vậy khi dùng misoprostol người sử dụng thuốc còn bị tác dụng phụ của thuốc mifepristone nữa không?
Dùng misoprostol thì có tác dụng phụ gì? có buồn nôn, nôn như dùng mifepristone không?

Nếu như các bạn có vấn đề về sức khỏe cần tư vấn các bạn có thể gọi 0438288288 để nghe các chuyên gia Phòng khám đa khoa 59 Khương Trung chia sẻ cùng các bạn.

Tác dụng phụ của thuốc phá thai: Thường gây Rong kinh dây dưa kéo dài sau khi phá thai.
Nguyên nhân: Do rối loạn nội tiết tố.
Hoặcbaạnn thao khảo thêm tại nhà thuốc nam của Ông tôi, hoặc liên lạc trực tiếp để Ông hướng dẫn.

hiện tại mình có thuốc phá thai mifepristone 200mg va misoproston bạn nào có nhu cầu mình sang lại cho! 0909800605!

Nếu phá thai được thực hiện bởi người được đào tạo có kỹ năng thì tai biến hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên mọi cơ sở phá thai phải thường trực 24/24 giờ để sẵn sàng cấp cứu khi có tai biến xảy ra.
Tử vong do phá thai hợp pháp chiếm 0,0006% tất cả các trường hợp phá thai (khoảng 1 ca tử vong trên 160.000 ca phá thai). Tử vong thường do nguyên nhân tác dụng phụ của thuốc giảm đau, tắc mạch, nhiễm khuẩn và băng huyết không khống chế được. Tử vong thứ phát do sốc nhiễm độc Clostridium sordellii (death secondary to toxic shock following infection with Clostridium sordellii): tỷ lệ < 0,001% các trường hợp.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị điều trị tai biến phá thai cũng tương tự như đối với sảy thai.
Các tai biến đặc trưng của phá thai ngoại khoa gồm:
- Ứ máu trong buồng tử cung: cần phải hút buồng tử cung, tỷ lệ dưới 0,2%.
- Nhiễm khuẩn: đa số dễ chẩn đoán và điều trị nếu người phụ nữ tuân thủ những hướng dẫn của thầy thuốc, tỷ lệ 0,1 – 2%. Dùng kháng sinh làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn sau thủ thuật.
- Rách cổ tử cung: cần phải khâu cầm máu, tỷ lệ 0,6 – 1,2%.
- Thủng tử cung do chọc hoặc rách: tỷ lệ < 0,4%. Tai biến này có thể tự liền hoặc phải phẫu thuật khâu lỗ thủng và hiếm khi cắt tử cung.
Một nghiên cứu 700 ca phá thai quý I và triệt sản, thấy 12 trong số 14 ca có thủng tử cung nhưng vì lỗ thủng nhỏ nên không phát hiện ra và không được điều trị nội khoa. Khi nghi ngờ thủng tử cung phải theo dõi và dùng kháng sinh. Nếu nghi ngờ thủng tạng rỗng, mạch máu hoặc các tổn thương khác phải mở bụng hoặc nội soi xử trí theo nguyên nhân.
- Còn thai: là sự không kết thúc được thai nghén và cần hút lại buồng tử cung, tỷ lệ < 0,3%.
- Sót rau thai: là hiện tượng còn sót lại mô rau thai trong buồng tử cung cần phải hút lại buồng tử cung, tỷ lệ 0,3 – 2%.
- Băng huyết: do sót rau, chấn thương và thủng tử cung cần phải truyền máu, tỷ lệ 0,02 – 0,3%.
Các tai biến đặc trưng của phá thai nội khoa:
- Thất bại của thuốc phá thai: cần phải hút lại buồng tử cung, tỷ lệ < 2% các trường hợp.
- Sảy thai không hoàn toàn: đòi hỏi phải hút lại buồng tử cung tránh băng huyết và nhiễm trùng, tỷ lệ < 6% các trường hợp.
- Băng huyết: đòi hỏi phải hút lại buồng tử cung và hiếm khi phải truyền máu, tỷ lệ < 1%các trường hợp.
- Nhiễm khuẩn tử cung: cần dùng kháng sinh, tỷ lệ 0,09 – 0,6% các trường hợp.
Biến chứng liên quan đến phương pháp vô cảm:
- Gây tê an toàn hơn gây mê đối với tất cả phương pháp phá thai quý I cũng như phương pháp nong gắp của quý II. Nếu áp dụng gây mê, nhân viên y tế cần được đào tạo để điều trị co giật và cấp cứu tim mạch cũng như cấp cứu hô hấp.
- Ngoài ra phải có các thuốc đối kháng với tác dụng phụ của thuốc ngủ.
Biến chứng lâu dài:
- Đa số phụ nữ phá thai an toàn không để lại hậu quả lâu dài đối với toàn thân và sức khỏe sinh sản. Tuy nhiên có một tỷ lệ nhỏ có biến chứng nặng nề sẽ để lại hậu quả về sau này. Các dữ liệu dịch tễ học cho thấy, phá thai an toàn quý I không làm tăng nguy cơ ung thư vú.
- Có một tỷ lệ nhỏ những bệnh nhân xuất hiện những biểu hiện tác dụng phụ trên tâm thần nhưng là do tồn tại tình trạng bệnh từ trước không phải là hậu quả của phá thai an toàn.

Trên thế giới hiện có 4 nhóm thuốc phá thai, Việt Nam dùng nhóm mifepristone và misoprostol.
Hoóc môn progesteron do hoàng thể tiết ra trong chu kỳ kinh nguyệt có tác dụng làm dày niêm mạc tử cung để trứng làm tổ và bám chắc vào đó. Nhóm thuốc mifepristone có tác dụng đối kháng với pro-gesteron nên cản trở quá trình này. Nếu dùng sớm khi chưa thụ thai thì nó ngăn cản quá trình thụ thai (được coi là thuốc tránh thai khẩn cấp). Nếu dùng muộn khi đã có thai trong vòng 49 ngày, nó làm bong thai ra khỏi niêm mạc tử cung, được coi là thuốc phá thai. Khi dùng mifepristone quá muộn, thai sẽ không bong ra được.
Còn nhóm thuốc misoprostol làm tăng cường co bóp cơ tử cung để tống thai ra ngoài sau khi mifepristone đã làm bong thai ra khỏi niêm mạc tử cung. Để phá thai, 2 nhóm thuốc trên nhất thiết phải kết hợp với nhau.
Phác đồ phá thai bằng thuốc gồm 3 bước:
- Làm bong thai: Bệnh nhân uống mifepristone 200 mg ngay tại phòng khám để làm tróc túi thai ra khỏi niêm mạc tử cung rồi về nhà tự theo dõi theo hướng dẫn của thày thuốc.
- Tống thai ra ngoài: Sau 48 giờ, bệnh nhân trở lại bệnh viện uống tiếp misoprostol 400 mg (để đẩy thai ra) và lưu lại phòng khám trong 3 giờ để theo dõi mạch, huyết áp (cứ nửa giờ một lần). Nơi theo dõi này phải có đủ các trang bị cấp cứu về tim mạch, đồng thời phải có điều kiện để vận chuyển bệnh nhân lên tuyến cao hơn.
- Kiểm tra hiệu quả: Sau 14 ngày, bệnh nhân đến khám lại. Nếu siêu âm vẫn thấy thai phát triển và tim thai vẫn đập thì bắt buộc phải phá bằng phương pháp khác; không được giữ thai.
Những lưu ý về phá thai nội khoa
Không được áp dụng phá thai bằng thuốc cho các trường hợp thai ngoài tử cung, đang mang vòng, thiếu máu nặng, bị bệnh gan và thận, dùng corticoid kéo dài.
Khi đã dùng phương pháp này thì phải quyết tâm đến cùng chứ không được bỏ dở. Thai phụ phải trình bày ý định phá thai bằng nội khoa chậm nhất là vào ngày thứ 42 của thai kỳ để có đủ thời gian (7 ngày) cùng với thày thuốc suy nghĩ kỹ trước khi đi đến quyết định. Thống kê ở các nước cho thấy hiệu quả của phương pháp này là 87-97%, nghĩa là còn khoảng 6% thất bại. Do thuốc có những tác hại với thai nên khi thuốc không hiệu quả, nếu không tìm cách khác để tống thai ra ngoài thì đứa trẻ sẽ phát triển không bình thường (có thể bị khuyết tật, dị dạng). Vì vậy, tuy thày thuốc đã hướng dẫn cách theo dõi sẩy thai nhưng thai phụ không được chủ quan mà bắt buộc phải đến bệnh viện để kiểm tra lần cuối (bước 3).
Thai phụ phải nói rõ với thày thuốc tuổi thai, tiền sử bệnh tật. Đây là những thông tin quan trọng giúp bác sĩ có thêm sự chính xác trong chẩn đoán và quyết định áp dụng biện pháp phá thai nội khoa.
Thuốc phá thai có một số tác dụng phụ như ra máu, rỉ máu kéo dài, buồn nôn, nôn. Thực chất đây là những hiện tượng thường có trong sẩy thai tự nhiên, nhưng thai phụ cần được báo trước để khỏi hoang mang.
Khi áp dụng phương pháp phá thai nội khoa, người bệnh không được dùng các thuốc phenitoin, phenobarbital, carbamazepine (vì các thuốc này làm giảm hiệu lực mifepristone) và cũng không được dùng các kháng viêm không steroid (vì làm giảm hiệu lực của phương pháp).